Thứ Tư, 03/02/2021, 10:36 (GMT+7)
.

Đảng là ngôi sao sáng, là niềm tin và hy vọng của đời tôi

Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình truyền thống cách mạng. Ông tôi tham gia phá khám lớn ở Sài Gòn năm 1925. Cha, chú tôi tham gia cách mạng sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đều là đảng viên cộng sản. Anh, chị tôi tham gia cách mạng trong những ngày miền Nam phá thế kìm kẹp của địch năm 1960, đều là đảng viên ưu tú. Từ khi học ở nhà trường, tôi có ý thức là con em của gia đình truyền thống cách mạng, với lòng căm thù giặc ngày đêm tàn sát bà con quê hương mình, trong đó có cha và chú tôi bị chúng bắt tù đày, tra tấn dã man.

Năm 1963, học xong đệ lục, tôi rời nhà trường, về quê tham gia công tác ở Đoàn Văn công xã và làm thư ký, giao liên cho chị tôi (lúc đó là Chi ủy viên, Trưởng Ban Chấp hành Hội Phụ nữ xã). Sau đó tôi được cử đi học lớp cứu thương do Quân y Cai Lậy đào tạo, rồi về công tác ở đội du kích xã. 2 tháng sau tôi được kết nạp vào Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, lúc đó tôi chưa tròn 15 tuổi. Được sự kèm cặp giúp đỡ của anh Ba Hành, Bí thư Chi bộ xã và chị Tư Cúc, Bí thư Xã đoàn…, tôi quyết tâm phấn đấu để xứng đáng là cánh tay đắc lực, đội hậu bị tin cậy của Đảng.

Đầu năm 1965, Huyện đoàn phát động đoàn viên, thanh niên đăng ký nhập ngũ, bổ sung cho lực lượng vũ trang và giao chỉ tiêu cho xã Hiệp Đức đưa 4 - 5 tân binh, tôi giơ tay tình nguyện đầu tiên, được biên chế vào Đại đội 3 của Tiểu đoàn 263 Đồng Tháp, bộ đội chủ lực Quân khu 2. Chỉ trong 2 tuần lễ, tôi được tham gia chiến đấu trận đầu tiên - trận tập kích dã ngoại, địch có hàng rào kẽm gai bảo vệ, ta diệt không dứt điểm, thương vong cũng nhiều, nhất là đơn vị bạn Đại đội 1 Kiến Tường phối hợp.

Tôi đã chứng kiến đảng viên Triệu Hùng khi chưa phá xong lớp rào gai đã nằm lên để đồng đội bước qua mình xung phong tiêu diệt địch. Từ hôm đó, tôi dần dần quen với cuộc sống, công tác và chiến đấu của đơn vị bộ đội chủ lực nhờ sự dìu dắt, giáo dục của các anh trong ban chỉ huy trung đội: Năm Phấn, Ba Trinh, Sáu Phúc… Và tôi quyết tâm làm theo, được chọn là đối tượng cảm tình, được học tập Điều lệ Đảng và làm lý lịch để cấp trên xem xét, kết nạp.

Cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân Mậu Thân năm 1968, tôi chưa có dịp để cấp trên chuẩn y kết nạp vì tham gia chiến đấu liên miên. Ngày 3-5-1968, trong trận chiến đấu ác liệt không cân sức với 120 xe tăng địch, tôi giữ bên mình khẩu AK của đồng chí bị thương và khẩu B40 của đồng chí hy sinh, phối hợp với đồng chí Cường xạ thủ B40 của Trung đội 3 đã bắn cháy 2 xe tăng địch, giữ vững trận địa.

Đến 16 giờ 30 phút, được lệnh cấp trên cho rút quân, tôi rời công sự và được cấp trên biểu dương, giới thiệu vào Đảng. Đúng 1 tháng sau, đơn vị về dưỡng quân tại xã Mỹ Thành Bắc, huyện Cai Lậy, tôi chính thức được kết nạp vào hàng ngũ Đảng khi tuổi chưa tròn 19, là đảng viên trẻ nhất của đơn vị thời đó.

Trong những năm chiến tranh ác liệt 1969, 1970, 1971, Mỹ - ngụy thực hiện chiến lược bình định cấp tốc, bọn chúng bung ra càn quét liên tục, gom dân vào ấp chiến lược, đóng đồn bót giăng giăng hòng chia cắt nhân dân và lực lượng kháng chiến…, gây thiệt hại không nhỏ cho ta. Nhiều đơn vị chủ lực không có địa hình đóng quân, phải phân tán từng cụm, từng bộ phận nhỏ áp sát đồn bót địch để công tác và chiến đấu, hỗ trợ địa phương tuyên truyền, vận động nhân dân đóng góp nuôi quân đang lúc gặp vô vàn khó khăn về đời sống.

Hết đêm tàn rồi sẽ rạng đông, bởi niềm tin có Đảng ở trong tim. Những lúc khó khăn, gian khổ ác liệt, cộng với đòn tâm lý chiến của kẻ thù, là tôi nghĩ đến những lời Bác dạy và nghĩ mình đã là đảng viên cộng sản thì không ngại khó khăn, gian khổ, thực hiện đúng lời tuyên thệ khi vào Đảng: “Chiến đấu đến hơi thở, giọt máu cuối cùng, suốt đời phấn đấu cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa vĩ đại ”…

Là chiến sĩ cứu thương, là y tá của đại đội bộ binh suốt 7 - 8 năm liền, nhưng thực chất tôi tham gia chiến đấu như một lính bộ binh, lúc thì sử dụng M16, lúc thì tiểu liên AK, lúc thì B40, M79… Do lập được nhiều thành tích trong chiến đấu, 3 năm liền tôi được bầu là Chiến sĩ thi đua cấp tiểu đoàn, trung đoàn và Tỉnh đội các năm 1972, 1973, 1974; được tặng danh hiệu “Dũng sĩ diệt cơ giới”, 3 lần là “Dũng sĩ Quyết thắng”, nhận 3 Huân chương “Chiến sĩ vẻ vang”, 3 “Huy hiệu Chiến dịch”, Huân chương Kháng chiến hạng Nhì, 3 Bằng khen của Quân khu, 3 Bằng khen của Trung đoàn, Tỉnh đội và trên 30 Giấy khen Tiểu đoàn.

Tôi nghĩ rằng, đi theo Đảng chiến đấu để giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà không phấn đấu để trở thành đảng viên thì không thể phục vụ tốt cho nhân dân hơn quần chúng được, vì phải thực hiện đúng Điều lệ Đảng, nói và làm theo nghị quyết, nếu thiếu tư cách đạo đức thì chắc chắn không còn trong hàng ngũ của Đảng, lấy gì để nhận Huy hiệu Đảng cao quý.     

TRẦN MINH CHÂU
(Cựu chiến binh xã Hiệp Đức, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang)

.
.
.