.

Giáo sư, Bác sĩ, Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Tấn Gi Trọng: Trọn đời cống hiến cho đất nước

Cập nhật: 14:38, 07/12/2021 (GMT+7)

Giáo sư, Bác sĩ, Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Tấn Gi Trọng sinh năm 1913, tại làng Bình Trưng, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay là xã Bình Trưng, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang) trong một gia đình Nho học tiến bộ có tinh thần yêu nước.

CHĂM HỌC VÀ HỌC GIỎI

Thuở nhỏ, ông rất chăm học và học giỏi; năm 1926, thi đậu vào Collège de MyTho (nay là Trường Trung học phổ thông Nguyễn Đình Chiểu, TP. Mỹ Tho); năm 1930, trúng tuyển vào Trường Lycée Pétrus Ký ở Sài Gòn (nay là Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong, TP. Hồ Chí Minh).

Tại đây, ông học cùng lớp với nhiều học sinh ưu tú, trở thành những trí thức cách mạng nổi tiếng, như Phạm Quang Lễ (tức Giáo sư - Viện sĩ Trần Đại Nghĩa), Lâm Văn Bồn, Lê Văn Mười (Giáo sư ngành Nông - Lâm), Đặng Văn Chung (Giáo sư Y Khoa), Dương Minh Châu (Tỉnh ủy viên Đảng bộ Tây Ninh, hy sinh anh dũng, tên được đặt cho một chiến khu ở Đông Nam bộ - Chiến khu Dương Minh Châu)…

Năm 1935, ông xuất sắc thi đậu tú tài toàn phần và trúng tuyển vào Trường Đại học Y - Dược khoa thuộc Viện Đại học Đông Dương đặt tại Hà Nội.

BÁC SĨ, NHÀ BÁO CÁCH MẠNG NỔI TIẾNG

Năm 1941, ông tốt nghiệp Bác sĩ Y khoa với luận án De l’ intérêt de la ponction sternale dans l’ étude du paludisme (Về ích lợi của chọc dò xương ức trong nghiên cứu sốt rét). Sau đó, ông làm việc tại Phòng Y tế, Sở Hỏa xa Đông Dương.

Đồng thời, ông còn hoạt động trên lĩnh vực báo chí, là Chủ nhiệm Báo Tin Mới, trụ sở tại phố Lagisquet, Hà Nội (nay là phố Chân Cầm, phường Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội).

Tháng 8-1945, với lòng yêu nước nhiệt thành, ông giác ngộ cách mạng và tham gia tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội. Vốn có năng lực chuyên môn cao, ông được Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp tin tưởng bổ nhiệm làm Phó Cục trưởng Cục Quân y.

Cùng với lãnh đạo Cục Quân y, ông đã đặt những viên gạch đầu tiên trong sự nghiệp xây dựng và phát triển ngành Quân y cách mạng Việt Nam. Tháng 1-1946, ông là Ủy viên Thường trực Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.

Đầu năm 1946, trước tình hình mới của cuộc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp giao cho ông phụ trách công tác thông tin tuyên truyền. Sau Ngày Toàn quốc kháng chiến (19-12-1946), ông được giao cương vị Tổng Giám đốc Nha Thông tin - Tuyên truyền (trong đó có Việt Nam Thông tấn xã). Từ năm 1950 - 1951, ông được đề bạt làm Chánh Văn phòng, Ban Thường trực Quốc hội.

Từ năm 1952 - 1954, ông được cử sang Nam Kinh (Trung Quốc) phụ trách y tế Khu học xá Trung ương. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (năm 1954), ông trở về nước, làm Trưởng Ban Y tế, Tổng cục Đường sắt (năm 1955) rồi phụ trách Phòng Giáo dục chuyên nghiệp Bộ Y tế (năm 1956).

TẬP TRUNG TRÍ TUỆ VÀ CÔNG SỨC CHO NGÀNH Y

Năm 1957, ông được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Bộ môn Sinh lý học, Trường Đại học Y Hà Nội. Trong suốt gần 30 năm, cùng với các đồng nghiệp và học trò của mình, ông đã hết lòng xây dựng bộ môn từ một cơ sở giảng dạy coi như không có gì, chỉ vỏn vẹn một giảng đường với vài phương tiện thực tập cũ kỹ trở thành một bộ môn y học cơ sở vững mạnh của nhà trường, gồm 1 giáo sư (Bác sĩ Nguyễn Tấn Gi Trọng), 3 phó giáo sư, 1 tiến sĩ, 6 phó tiến sĩ, các nghiên cứu sinh và bác sĩ trẻ có tài năng, say mê nghiên cứu, làm việc trong những phòng thí nghiệm hiện đại: Phòng Hóa - Sinh lý (tặng phẩm của Giáo sư, Tiến sĩ S. Rapopore, Viện trưởng Viện Hóa sinh, Trường Đại học Tổng hợp Humbolt, Berlin, Cộng hòa Dân chủ Đức), Phòng Sinh lý lâm sàng, Phòng Hóa - Tổ chức, Phòng Sinh lý dinh dưỡng, Phòng Nghiên cứu chức năng thận (xây dựng từ năm 1980)...

Sau những lần đi công tác và dự hội nghị khoa học ở nước ngoài (Hội nghị quốc tế về ung thư lần thứ VII, Matxcơva, Liên Xô, năm 1962; Hội nghị quốc tế về cấp cứu y học và nội khoa ở Budapest, Hungary, tháng 6-1973...), được tiếp xúc với các nhà y học nổi tiếng thế giới, ông nắm bắt được những vấn đề khoa học về y khoa có tính mới nhất.

Với kiến thức uyên bác và lòng say mê khoa học, ông đã chỉ đạo bộ môn đi sâu vào những nghiên cứu hết sức quan trọng. Trước hết là các vấn đề thuộc lĩnh vực y học ứng dụng, như sinh đẻ có kế hoạch, kỹ thuật chiết xuất kích dục tố nhau thai, y học lao động phục vụ công - nông nghiệp...; đặc biệt, công trình nghiên cứu Hằng số sinh học do ông chủ trì đã tập hợp được nhiều cơ quan tham gia, đánh dấu một bước quan trọng trong việc điều tra cơ bản về con người Việt Nam, mà kết quả là đã xuất bản được tập Hằng số sinh học người Việt Nam.

Bên cạnh những vấn đề thuộc lĩnh vực Y học ứng dụng, những nghiên cứu cơ bản về Y khoa cũng song song phát triển dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ông. Cùng với các bộ môn y học khác, Bộ môn Sinh lý học đã đi vào nghiên cứu sinh học phân tử, như chức năng của các hormon vùng dưới đồi (hypothalamus), trạng thái “sốc” của sốt rét, sự thích nghi tích cực của cơ thể với tình trạng thiếu protein...

Từ những năm 60 của thế kỷ XX, xúc cảm trước sự tận tụy cống hiến trong lao động nghệ thuật của các nghệ sĩ, ông đã cùng với Giáo sư Trần Hữu Tước đứng ra thành lập “Ban Y học nghệ thuật” để chăm sóc sức khỏe cho giới nghệ sĩ, đặc biệt là chăm sóc giọng nói, tiếng hát cho các ca sĩ và diễn viên.

Trong thập niên 1980, ông chuyển vào TP. Hồ Chí Minh sinh sống và làm việc tại Trường Đại học Y Dược và Trung tâm Đào tạo - Bồi dưỡng cán bộ y tế. Từ năm 1997, khi đã bước vào tuổi 85, ông mới chính thức nghỉ hưu. Mặc dù tuổi cao sức yếu, nhưng ông vẫn nhiệt tình say mê nghiên cứu khoa học, làm cố vấn cho Trung tâm Đào tạo - Bồi dưỡng cán bộ y tế TP. Hồ Chí Minh, tích cực tham gia công tác trong Hội Y học TP. Hồ Chí Minh, đem kiến thức, chuyên môn của mình truyền cho các thế hệ thầy thuốc trẻ.

NHỮNG PHẦN THƯỞNG CAO QUÝ

Ngoài công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học, ông còn tham gia nhiều hoạt động xã hội phong phú, là Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội các khóa I (1946 - 1960), III (1964 - 1971) và khóa  IV (1971 - 1975); Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chánh Văn phòng Ban Thường trực Quốc hội khóa I, Ủy viên Ủy ban Thống nhất của Quốc hội khóa II (1960 - 1964); Ủy viên Ủy ban Văn hóa - Xã hội của Quốc hội khóa III, IV; Ủy viên Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội khóa V (1975 - 1976), VI (1976 - 1981) và khóa  VII (1981 - 1987); đại biểu Quốc hội các khóa I, II, III, IV, V, VI và VII; Ủy viên Ban Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch Tổng hội Y học, Chủ tịch Hội Sinh lý Việt Nam…

Trong quá trình hoạt động cách mạng và công tác chuyên môn, ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất, Huân chương Đại đoàn kết dân tộc, danh hiệu Nhà giáo Nhân dân.

PHAN SƠN AN (tổng hợp)

.
.
.