Thứ Sáu, 09/12/2022, 13:54 (GMT+7)
.

Chủ trương, đường lối của Đảng về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là chủ trương lớn, là nhiệm vụ chiến lược, trung tâm, quan trọng hàng đầu của Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.

a
Sản xuất ô-tô tại nhà máy Công ty TNHH Sản xuất và Kinh doanh VinFast, Khu công nghiệp Ðình Vũ (Hải Phòng). (Ảnh: TRẦN HẢI)

Tư duy lý luận của Ðảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ Ðổi mới từ năm 1986 đến nay liên tục được bổ sung, phát triển và hoàn thiện. Ðây cũng là quá trình phản ánh những điểm mới, nổi bật trong đường lối của Ðảng ta về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với bối cảnh mới.

Ðối với đại đa số các nước trên thế giới, để trở thành nước công nghiệp, nước phát triển, đạt mức thu nhập cao đều phải tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chỉ có một số ít nước không trải qua công nghiệp hóa vẫn trở thành nước phát triển hay nước công nghiệp như Singapore, Thụy Sĩ, Canada, New Zealand, Australia, Israel. Ðây đều là các quốc gia có tổng thu nhập quốc dân GNI/người rất cao, có nước đạt trên 50.000 USD.

Tuy nhiên, với đặc điểm và điều kiện của Việt Nam, để trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp vào năm 2025; là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 thì tất yếu phải tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sửa đổi, bổ sung năm 2011) đã đặt ra yêu cầu: "Ðẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường".

Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030 được thông qua tại Ðại hội XIII của Ðảng cũng nêu rõ: "Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu công nghệ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư".

Trải qua mỗi kỳ Ðại hội, dù cho cách diễn đạt có thể khác nhau, nhấn mạnh các nhiệm vụ cấp bách khác nhau cần giải quyết trong mỗi thời kỳ phát triển của đất nước, song về cơ bản, Ðảng ta đã đề ra và chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện nhiều chủ trương, đường lối quan trọng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa với tinh thần xuyên suốt, nhất quán là hướng tới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm đưa đất nước trở thành nước công nghiệp phát triển có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, chất lượng cuộc sống của người dân ngày càng nâng cao.

Trên cơ sở đánh giá các kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đồng thời phân tích bối cảnh mới trong nước, quốc tế và những vấn đề mới đang đặt ra hiện nay, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng đã thống nhất ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 17/11/2022 về "Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045".

Trong bối cảnh hiện nay, khi đất nước ta đã có thế và lực mới, Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động, đủ sức chống chịu với những biến động bên ngoài và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, chủ động, thực chất, hiệu quả, Nghị quyết số 29-NQ/TW đề cập và nhấn mạnh tính tổng thể, toàn diện của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn tới.

Ðây cũng là những định hướng để cụ thể hóa các chủ trương của Ðảng nêu trong Văn kiện Ðại hội lần thứ XIII của Ðảng; là cơ sở, căn cứ chính trị quan trọng trong việc định hướng những tư duy mới, chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp mới nhằm tạo động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần thực hiện mục tiêu đề ra tại Nghị quyết Ðại hội Ðảng lần thứ XIII.

Nghị quyết đã làm rõ nội hàm, nhận thức về công nghiệp hóa, hiện đại hóa là "quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện nền kinh tế và đời sống xã hội dựa chủ yếu vào sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo".

Quan điểm này được hình thành từ kế thừa và phát triển những tri thức nhân loại về quá trình phát triển kinh tế-xã hội, phù hợp với điều kiện thực tiễn của các quốc gia đi sau đang trong quá trình phát triển lên trình độ chung của thời đại.

Ðiểm mới của Nghị quyết là nhận thức rõ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình bao trùm tất cả các ngành, các lĩnh vực hoạt động của một quốc gia; phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Nghị quyết thống nhất nhận thức về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, coi "công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, phát triển nhanh và bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa".

Gắn quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa với xây dựng nền kinh tế, quốc gia độc lập tự chủ, dựa trên nội lực của đất nước, coi nội lực là quyết định. công nghiệp hóa, hiện đại hóa là phương thức để thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững đất nước. Việc đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là tất yếu khách quan trong tình hình mới.

Nghị quyết nhấn mạnh quan điểm xuyên suốt của Ðảng luôn lấy con người làm trung tâm, làm chủ thể, là mục tiêu, là động lực, nguồn lực cho sự phát triển, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cụ thể là: "Ðẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, lấy con người là trung tâm, doanh nghiệp là chủ thể".

Luôn đặt công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong tổng thế chiến lược phát triển đất nước để có cách tiếp cận toàn diện; gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển bền vững và chú trọng giải quyết hài hòa các mối quan hệ lớn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: "Bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động".

Trên cơ sở đó, Nghị quyết xác định rõ nội dung và yêu cầu then chốt trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trên cơ sở không đồng nhất công nghiệp hóa là con đường duy nhất để xây dựng nước công nghiệp và không đồng nhất công nghiệp hóa với phát triển công nghiệp.

Theo đó: "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải khai thác và phát huy tốt nhất mọi tiềm năng, lợi thế của đất nước, của từng vùng và địa phương; lợi thế của nền kinh tế đi sau và đang trong thời kỳ dân số vàng; kết hợp đồng bộ, hiệu quả giữa phát triển tuần tự với đi tắt đón đầu; chuyển dịch nhanh từ gia công, lắp ráp sang nghiên cứu, thiết kế và sản xuất tại Việt Nam; tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao, chú trọng đẩy mạnh dịch vụ hóa các ngành công nghiệp. Coi trọng phát triển công nghiệp chế tạo, chế biến là then chốt, chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu".

Ðiều này thể hiện rất rõ quá trình chuyển đổi từ phát triển nền kinh tế phụ thuộc vào gia công, lắp ráp sang chủ động chế tạo, chế biến, vươn lên, làm chủ công nghệ; nhấn mạnh vai trò nền tảng, trụ đỡ của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thông qua việc coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu; đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế dựa trên nền tảng khoa học-công nghệ để làm động lực cho tăng trưởng.

Qua hơn 35 năm đổi mới, tư duy lý luận và chủ trương, đường lối của Ðảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nông nghiệp, các ngành dịch vụ, các lĩnh vực đô thị, kết cấu hạ tầng, các đột phá về cơ sở vật chất ở những ngành kinh tế công nghiệp nền tảng... cho thấy sự thống nhất và phát triển, hoàn thiện về mặt tư duy lý luận, gắn chặt với thực tiễn sinh động.

Tại Nghị quyết lần này đã xác định "chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá", chỉ rõ lộ trình, bước đi trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và các lĩnh vực ngành nghề cần ưu tiên phát triển đặt trong mối quan hệ tổng thể với yêu cầu tập trung về nguồn lực thực hiện; xác định quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sẽ không thể tiến hành biệt lập, khép kín mà phải đặt trong chuỗi sản xuất - kinh doanh toàn cầu, với lợi thế của nền kinh tế đi sau, cùng với việc chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế số, Việt Nam hoàn toàn có thể "kết hợp đồng bộ, hiệu quả giữa phát triển tuần tự với đi tắt đón đầu" và rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tư duy lý luận của Ðảng về chủ thể và nguồn lực thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng được bổ sung và hoàn thiện, từ đó làm sâu sắc thêm vị trí, vai trò và tầm quan trọng của nguồn lực này đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, khẳng định công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân với sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế cũng như các chủ thể khác nhau trong xã hội: "Xác định nguồn lực trong nước là cơ bản, chiến lược, lâu dài và quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá; doanh nghiệp trong nước (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân) là động lực chính, chủ đạo; doanh nghiệp FDI có vai trò quan trọng, đột phá".

Nghị quyết cũng đề ra yêu cầu trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, "phải bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, hiệu quả; khơi dậy khát vọng phát triển, tinh thần khởi nghiệp quốc gia, đổi mới sáng tạo; phát huy giá trị tinh hoa văn hóa dân tộc, bản lĩnh và trí tuệ con người Việt Nam và truyền thống của giai cấp công nhân, vai trò xung kích, đi đầu của đội ngũ tri thức và doanh nhân Việt Nam".

Bám sát các quan điểm chỉ đạo, đồng thời căn cứ vào các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 đã được đưa ra tại Ðại hội lần thứ XIII của Ðảng; tiếp thu các cách đánh giá, phân loại các nước theo thông lệ quốc tế, được các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc, Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế, Tổ chức Thương mại thế giới, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế... và hầu hết các nước trên thế giới sử dụng; trên cơ sở tiếp cận các tiêu chí của nước đang phát triển, nước phát triển; nước có thu nhập trung bình cao, nước có thu nhập cao và tiêu chí của nước công nghiệp, Nghị quyết số 29-NQ/TW đã xác định mục tiêu tổng quát đến năm 2030 là: "Việt Nam cơ bản đạt được các tiêu chí của nước công nghiệp, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đời sống của nhân dân được nâng cao; xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh với năng lực sản xuất mới, tự chủ, khả năng thích ứng, chống chịu cao, từng bước làm chủ công nghệ lõi, công nghệ nền của các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn. Nông nghiệp phát triển nhanh, bền vững theo hướng sinh thái, ứng dụng mạnh mẽ khoa học-công nghệ tiên tiến. Các ngành dịch vụ được cơ cấu lại đồng bộ, hiệu quả trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số với chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh được nâng cao, hình thành được nhiều ngành dịch vụ mới, có giá trị gia tăng cao".

Nghị quyết cũng đã đưa ra tầm nhìn đến năm 2045:"Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, thuộc nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu khu vực Châu Á".

Ðể thực hiện các mục tiêu, cùng với việc xác định nội dung cốt lõi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo 2 giai đoạn: Ðến năm 2030, Việt Nam cơ bản đạt được các tiêu chí của nước công nghiệp, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; và đến năm 2045 Việt Nam trở thành nước phát triển, có thu nhập cao, thuộc nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu khu vực châu Á; Nghị quyết đề ra 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn tới, tập trung vào: 1- Ðổi mới tư duy, nhận thức và hành động quyết liệt tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; 2- Xây dựng và hoàn thiện cơ thể chế, chính sách thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa; 3- Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, tự lực, tự cường; nâng cao năng lực ngành xây dựng với việc tập trung xây dựng và triển khai Chương trình quốc gia về nâng cao năng lực độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của nền sản xuất Việt Nam đến năm 2045 (Make in Vietnam 2045); Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2030; xác định rõ các ngành, lĩnh vực cần ưu tiên nguồn lực và có các cơ chế, chính sách khuyến khích và ưu đãi đủ mạnh để phát triển, tránh dàn trải; 4- Ðẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; tiếp tục cơ cấu lại ngành dịch vụ dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; 5- Phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh góp phần thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; 6- Phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; thúc đẩy đô thị hóa nhanh và bền vững gắn kết chặt chẽ và tạo động lực cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; 7- Phát triển các thành phần kinh tế nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa; 8- Ðổi mới chính sách tài chính, tín dụng thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhanh, bền vững với việc tập trung vào đổi mới các chính sách ưu đãi về thuế phù hợp với thông lệ quốc tế, hướng tới trọng tâm ưu tiên thúc đẩy phát triển hệ sinh thái và chuỗi giá trị sản xuất, dịch vụ hiện đại; thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách để hướng tín dụng tập trung vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên; 9- Quản lý sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng cường hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả đi đôi với bảo vệ và phát triển thị trường trong nước; 10- Xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh, lực lượng doanh nhân xung kích, đi đầu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát huy giá trị văn hóa, bản lĩnh con người Việt Nam, bảo đảm tốt an sinh, xã hội với quan điểm xác định con người là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu và là động lực, nguồn lực cho sự phát triển và thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Ðây là những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, đột phá, bao phủ những vấn đề lớn nhằm giải quyết những điểm nghẽn, khắc phục những hạn chế trong thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời gian qua, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn phát triển tới.

Như vậy, khái quát chung có thể thấy quá trình đổi mới tư duy lý luận của Ðảng đến nay cho thấy sự liên tục bổ sung, cập nhật, hoàn thiện. Nghị quyết số 29-NQ/TW đã thể hiện rõ sự vận dụng sáng tạo của Ðảng ta về các quy luật khách quan, trong đó quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất; giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất trong từng giai đoạn phát triển; tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tư duy lý luận của Ðảng đã thể hiện sự nhất quán, vận dụng sáng tạo tinh thần chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu xuyên suốt của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm không ngừng phát triển, nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động xã hội, xây dựng cơ sở vật chất để từ đó cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, xây dựng, củng cố thế và lực của đất nước, phát triển nhanh và bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ðây cũng chính là quá trình từng bước thực hiện mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển của Việt Nam.

Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng lần này yêu cầu tạo ra sự đổi mới tư duy, nhận thức và hành động quyết liệt, đồng bộ hơn trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Với sự thống nhất và quyết tâm chính trị cao, sự hưởng ứng và tích cực tham gia của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, Nghị quyết sẽ nhanh chóng đi vào cuộc sống và góp phần thực hiện thành công các mục tiêu Ðại hội XIII của Ðảng đã đề ra.

Theo nhandan.vn
 

 

.
.
.