Tập trung cao, nỗ lực lớn và quyết tâm hơn nữa trong nửa nhiệm kỳ còn lại (*)
Ngày 25-7, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tiền Giang tổ chức Hội nghị sơ kết, đánh giá kết quả qua nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng bộ tỉnh. ABO xin đăng toàn văn bài phát biểu chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Văn Danh, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội đơn vị tỉnh Tiền Giang.
Ngày 25-7, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Tiền Giang tổ chức Hội nghị sơ kết, đánh giá kết quả qua nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng bộ tỉnh. Qua dự thảo báo cáo và qua ý kiến phát biểu của các đồng chí, đặc biệt là ý kiến của đồng chí Phó Bí thư Tỉnh ủy - Chủ tịch UBND tỉnh đã phân tích, làm rõ thêm nhiều vấn đề trong dự thảo báo cáo của Tỉnh ủy và thực tiễn, thực trạng của các ngành, của địa phương về những kết quả đã đạt được; những khó khăn, hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân; những đề xuất, kiến nghị và nhiệm vụ, giải pháp cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện trong nửa nhiệm kỳ còn lại, thể hiện rất rõ sự nỗ lực, quyết tâm cao trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Nghị quyết.
Đồng chí Nguyễn Văn Danh phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị sơ kết, đánh giá kết quả qua nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng bộ tỉnh Tiền Giang diễn ra vào sáng ngày 25-7. |
Điều đáng mừng là ngay từ đầu nhiệm kỳ, mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức do hạn, xâm nhập mặn diễn ra gay gắt, kéo dài vào năm 2020; sự tác động, ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19 chưa từng có tiền lệ và những yếu tố bất lợi của tình hình chung tác động đến nền kinh tế, nhưng với sự đoàn kết, quyết tâm rất cao của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh ủy; của các cấp ủy, chính quyền, của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; đặc biệt là sự đồng tình, ủng hộ, chia sẻ của các đồng chí lão thành cách mạng, sự chung sức, đồng lòng của doanh nghiệp và người dân, chúng ta đã thực hiện thành công “Mục tiêu kép”, kinh tế tăng trưởng và phát triển, an sinh xã hội được đảm bảo.
Một số chỉ tiêu, nhiệm vụ tuy thực hiện chưa đạt so với Nghị quyết, nhưng kết quả mang lại cũng rất khả quan với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 3 năm (2021 - 2023) tăng 4,3%/năm (Nghị quyết đến năm 2025 tăng 7% - 7,5%/năm); trong đó, năm 2021 (Năm xảy ra dịch bệnh Covid-19) âm 0,91% (Tỉnh ta có số ca mắc Covid-19 rất cao, đứng thứ 5 sau TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai và Long An), đến năm 2022 (Sau khi dịch bệnh được kiểm soát) tăng 7,04%, dự kiến năm 2023 tăng 7% - 7,5%. Thu nhập bình quân đầu người năm 2021 đạt 56 triệu đồng, năm 2022 đạt 63 triệu đồng và năm 2023 ước đạt 69 triệu đồng, tăng 1,22 lần so năm 2020 (Nghị quyết đến năm 2025 đạt 91,5 - 93,5 triệu đồng).
Kim ngạch xuất khẩu năm 2021 đạt 3,11 tỷ USD, năm 2022 đạt 4,09 tỷ USD, ước năm 2023 đạt 4,17 tỷ USD (Nghị quyết đến năm 2025 đạt 4,5 tỷ USD). Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn giai đoạn 2021 - 2023 ước đạt 30.229 tỷ đồng (Nghị quyết cả nhiệm kỳ đạt 77.000 tỷ đồng). Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 2021 - 2023 là 125.710 tỷ đồng, đạt 51% so với Nghị quyết là 246.000 tỷ đồng. Thu hút đầu tư tăng dần qua các năm, đến nay đã thu hút được 48 dự án với tổng vốn đầu tư hơn 44.450 tỷ đồng.
Nhiều công trình, dự án trọng điểm của Trung ương, của tỉnh đã và đang được triển khai thực hiện (Có công trình đã hoàn thành, đưa vào sử dụng và có công trình đang khởi công), góp phần quan trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển, tạo được sự phấn khởi trong nhân dân, như: Hoàn thành đưa vào sử dụng đường cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận, mở rộng các cầu hẹp trên tuyến Quốc lộ 1A, nâng cấp mở rộng Quốc lộ 50; khánh thành đưa vào sử dụng cầu Trà Lọt, cầu Ngũ Hiệp, cầu Kênh Xáng, cầu Bình Xuân, cầu Nguyễn Văn Tiếp, cầu Vàm Cái Thia, Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang (Bệnh viện ngàn giường).
Tiếp tục phối hợp triển khai thực hiện Dự án Cầu Mỹ Thuận 2, cầu Rạch Miễu 2, đường cao tốc An Hữu - Cao Lãnh, Khu công nghiệp Bình Đông; khởi công xây dựng cầu Vàm Giồng, cầu Chợ Gạo, cầu Tân Thạnh, các cống ngăn mặn tại đầu các kinh, rạch ra sông Tiền trên đường tỉnh 864 và Trung tâm Kiểm nghiệm, kiểm soát bệnh tật tỉnh...
Quang cảnh hội nghị. |
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nông thôn mới đạt kết quả tích cực, trong 2 năm (2021 - 2022) đã xây dựng được 19 xã nông thôn mới, 2 huyện Gò Công Tây, Cai Lậy đạt huyện nông thôn mới; nâng tổng số có 137/142 xã nông thôn mới và 4/8 huyện đạt huyện nông thôn mới, đứng thứ 1/13 tỉnh, thành vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Dự kiến đến cuối năm 2023, sẽ có thêm 5 xã nông thôn mới, nâng tổng số lên 142/142 xã và 2 huyện Cái Bè, huyện Châu Thành đạt huyện nông thôn mới, nâng tổng số lên 6/8 huyện, còn 2 huyện Tân Phú Đông và Tân Phước tiếp tục thực hiện theo lộ trình đến năm 2025.
Lĩnh vực văn hóa - xã hội có sự chuyển biến tích cực, an sinh xã hội tiếp tục được cải thiện; các chế độ, chính sách cho người có công, hộ nghèo, hộ cận nghèo, người có thu nhập thấp và các đối tượng xã hội được thực hiện tốt (Đặc biệt là trong thời gian xảy ra dịch bệnh Covid-19 vào đầu tháng 6-2021, chúng ta đã tập trung mọi nguồn lực, cả về nhân lực, trí lực, vật lực và đã chi trên 930 tỷ đồng cho công tác phòng, chống dịch, hỗ trợ cho người dân gặp khó khăn, người lao động bị mất việc làm); công tác dạy nghề và đào tạo lao động luôn được quan tâm, nhất là hỗ trợ dạy nghề cho lao động nông thôn, đã góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh từ 51% năm 2020 lên 52,5% năm 2022, dự kiến năm 2023 đạt 54% (Nghị quyết đến năm 2025 là 57%).
An ninh, trật tự được giữ vững, đã chủ động triển khai nhiều biện pháp, giải pháp thực hiện mục tiêu kiềm chế, kéo giảm tội phạm theo phương châm “Lấy phòng ngừa làm trọng tâm, kết hợp chặt chẽ phòng ngừa với quyết tâm tấn công, trấn áp tội phạm”; đã kịp thời phát hiện, đấu tranh hiệu quả với phương thức, thủ đoạn phạm tội mới, nhất là tội phạm núp bóng doanh nghiệp, công ty luật, tội phạm công nghệ cao, các băng, nhóm hành xử côn đồ theo kiểu xã hội đen, tội phạm về ma túy và các tệ nạn xã hội.
Công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, mặt trận và các đoàn thể tiếp tục được quan tâm kiện toàn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động (Đến nay, chúng ta đã bổ sung đủ số lượng Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh 51 đồng chí, Ban Thường vụ Tỉnh ủy 15 đồng chí theo đề án nhân sự Đại hội XI của Đảng bộ tỉnh; kiện toàn cơ bản đủ chức danh lãnh đạo cấp trưởng, cấp phó các sở, ngành tỉnh, cấp ủy viên cấp huyện và cán bộ chủ chốt ở cấp huyện).
Các cấp, các ngành và các địa phương luôn bám sát quan điểm, mục tiêu và những nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết gắn với tình hình thực tế để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, đi đôi với việc xem xét, giải quyết những vấn đề bức xúc, những việc còn tồn tại qua nhiều năm và do tình hình thực tế đặt ra (Việc này chúng ta làm rất quyết tâm, rất bài bản; có tham khảo ý kiến của ngành chuyên môn, của cấp trên và giải quyết kiên quyết, đúng quy định, trên tinh thần “Thấu tình đạt lý”).
Bên cạnh những kết quả đã đạt được và nhiều việc đã làm được từ đầu nhiệm kỳ đến nay, chúng ta vẫn còn không ít khó khăn, hạn chế cần sớm có giải pháp khắc phục. Tôi xin nêu 6 vấn đề cụ thể:
Một là: Tăng trưởng của một số ngành chưa bền vững; tiến độ triển khai các dự án đầu tư hạ tầng cụm công nghiệp còn có những vướng mắc về thủ tục đất đai; sản xuất công nghiệp chủ yếu là sơ chế hoặc gia công, chưa hình thành công nghiệp chế biến sâu, công nghiệp công nghệ cao nên sức cạnh tranh thấp.
Hai là: Lĩnh vực thương mại chưa khai thác và phát huy hết được tiềm năng, thế mạnh, đặc biệt là đối với các sản phẩm của ngành Nông nghiệp, chưa có sản phẩm chủ lực xuất khẩu, chủ yếu là phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong nước hoặc sơ chế xuất khẩu (Còn dựa nhiều vào doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chiếm trên 70%).
Ba là: Phát triển du lịch còn mang tính tự phát, nhỏ lẻ; các doanh nghiệp chủ yếu khai thác nguồn lợi từ thiên nhiên và di tích lịch sử, văn hóa sẵn có; công tác xúc tiến, quảng bá du lịch chỉ mới dừng lại ở việc tham gia hội chợ triển lãm, chưa phát huy được năng lực và điều kiện để tổ chức tour du lịch dài ngày cũng như phát triển kinh doanh lữ hành, nhất là lữ hành quốc tế (Hầu hết các tour phải thông qua các doanh nghiệp ở TP. Hồ Chí Minh).
Thứ tư là: An ninh, trật tự, tệ nạn xã hội có lúc còn diễn biến phức tạp; công tác nắm bắt tình hình, theo dõi địa bàn, quản lý đối tượng, trực sẵn sàng chiến đấu có nơi chưa tốt (Nếu chúng ta không thực hiện tốt việc này thì đây sẽ là cơ hội để các thế lực thù địch, các loại tội phạm lợi dụng phá hoại, gây rối và phạm tội, thực tế đã cho chúng ta thấy rõ điều này). Việc điều động Công an chính quy về cơ sở bước đầu đã đem lại hiệu quả tích cực; tuy nhiên, lực lượng này cũng còn hạn chế về kiến thức thực tiễn, chưa gần dân, sát dân, chưa hiểu hết được địa bàn, khu dân cư và vấn đề bản lĩnh trong công tác trấn áp tội phạm.
Năm là: Hoạt động quản lý, điều hành của Nhà nước có mặt còn hạn chế, nhất là ở lĩnh vực quy hoạch, xây dựng, quản lý đô thị, quản lý đất đai và bảo vệ môi trường; tinh thần trách nhiệm, thái độ thực thi công vụ, phục vụ của một số cán bộ, công chức, viên chức chưa cao, làm ảnh hưởng đến kết quả công việc, còn gây phiền hà cho doanh nghiệp và người dân.
Kim ngạch xuất khẩu là chỉ tiêu đạt khá trong nửa nhiệm kỳ (ảnh: Sản xuất tại Công ty TNHH Gia công đồng Hải Lượng Việt Nam, Khu công nghiệp Long Giang, huyện Tân Phước). Ảnh: VĂN THẢO |
Sáu là: Năng lực lãnh đạo của cấp ủy và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng một số nơi chưa đáp ứng kịp yêu cầu nhiệm vụ, chậm phát hiện vi phạm và xử lý sai phạm; phương thức lãnh đạo ở một số nội dung chưa rõ người, rõ việc, rõ thời gian; một số cán bộ, đảng viên chưa thể hiện được tính nêu gương, chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ vì công việc chung (Có trường hợp quá thụ động, né tránh trách nhiệm; có trường hợp dám nghĩ nhưng không dám làm, có trường hợp dám làm nhưng không dám chịu trách nhiệm. Các đồng chí xem có phải như vậy không, nếu nơi nào có thì phải chấn chỉnh, khắc phục ngay, vì đây là biểu hiện của sự suy thoái).
Thời gian còn lại của nhiệm kỳ không nhiều (Đến thời điểm này, còn chưa được 3 tháng nữa là Đại hội XI đã đi qua được 3 năm), nhưng công việc của chúng ta phải làm là rất nhiều và có những việc sẽ phát sinh, sẽ gặp không ít khó khăn, vướng mắc, đòi hỏi phải có sự tập trung cao, nỗ lực lớn và phải quyết tâm, quyết liệt hơn nữa trong hơn 2 năm còn lại, để vừa hoàn thành nhiệm vụ chính trị hằng năm và các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội; vừa phải chuẩn bị cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức Đại hội đảng bộ các cấp, nhiệm kỳ 2025 - 2030, tiến tới Đại hội đại biểu lần thứ XIV của Đảng. Vì vậy, vấn đề đặt ra là các tổ chức Đảng, các cấp, các ngành và các địa phương ngay từ bây giờ phải rà soát, sắp xếp công việc cho phù hợp, có cân nhắc cụ thể việc gì cần làm ngay, việc gì phải ưu tiên làm trước, nên có sự tính toán kỹ để có bước đi cụ thể.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy xin ghi nhận ý kiến phát biểu của các đồng chí và thống nhất với 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong dự thảo báo cáo sơ kết của Tỉnh ủy, giao Văn phòng Tỉnh ủy tiếp thu, hoàn chỉnh Báo cáo. Các cấp, các ngành và các địa phương nghiên cứu, bổ sung vào chương trình, kế hoạch để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện ở cấp mình, ngành mình, địa phương mình sao cho có hiệu quả nhất, với quyết tâm là phải hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội ở mỗi cấp đã đề ra (Tinh thần chung là chúng ta không điều chỉnh về chỉ tiêu mà Nghị quyết Đại hội đã thông qua). Tại hội nghị này, tôi lưu ý thêm với các đồng chí một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
Nhiệm vụ, giải pháp thứ nhất: Phải tích cực, chủ động phối hợp với đơn vị tư vấn sớm rà soát, hoàn thiện quy hoạch của tỉnh thời kỳ 2021 - 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 để thông qua Hội đồng thẩm định, HĐND tỉnh và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong năm 2023. Khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì tổ chức ngay Hội nghị công bố Quy hoạch, kết hợp với công tác xúc tiến, mời gọi đầu tư; triển khai thực hiện các chương trình, dự án, kế hoạch phát triển của các ngành, các lĩnh vực, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và đầu tư công trung hạn nhằm khai thác tốt hơn tiềm năng, lợi thế của tỉnh; đồng thời, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, gia tăng năng lực cạnh tranh để đáp ứng yêu cầu hội nhập, đảm bảo quốc phòng, an ninh trật tự, an sinh xã hội và nâng cao chất lượng đời sống của người dân.
Nhiệm vụ, giải pháp thứ hai: UBND tỉnh chỉ đạo rà soát lại tất cả các chỉ tiêu về kinh tế - xã hội để có sự đánh giá, dự báo khả năng những chỉ tiêu khó đạt so với Nghị quyết để có sự tập trung chỉ đạo tháo gỡ vướng mắc, ưu tiên nguồn lực; phấn đấu hoàn thành cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu của Nghị quyết, nhất là chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế bình quân tăng từ 7% - 7,5%/năm. Để đạt được chỉ tiêu này thì tốc độ tăng trưởng bình quân 2 năm 2024 - 2025 phải đạt 11,3%/năm; trong đó, khu vực I tăng 5,25%/năm, khu vực II tăng 18,7%/năm và khu vực III tăng 10,5%/năm là vô cùng khó khăn; bởi chúng ta chỉ còn khoảng 5 tháng cuối của năm 2023 và 6 tháng đầu năm 2024, là khoảng thời gian tập trung nhiều cho việc phát triển kinh tế - xã hội; nửa năm còn lại của năm 2024 và năm 2025, chúng ta phải dành phần lớn thời gian cho công tác chuẩn bị và tổ chức Đại hội đảng bộ 3 cấp ở địa phương (Các đồng chí cần có sự sắp xếp hợp lý, ưu tiên trong đầu tư và trong triển khai thực hiện; phải cải thiện môi trường sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh cải cách hành chính gắn với phát huy tốt nhất tiềm năng, lợi thế phát triển của tỉnh và của mỗi địa phương).
Nhiệm vụ, giải pháp thứ ba: Tập trung triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, các giải pháp để đến năm 2025, Tiền Giang trở thành tỉnh phát triển trong Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam; tự cân đối ngân sách và đạt chuẩn nông thôn mới theo mục tiêu của Nghị quyết Đại hội. Đây là 3 mục tiêu rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự phá triển bền vững của tỉnh; do đó, các đồng chí cần tập trung, quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện 3 việc:
Một là, chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể để thực hiện Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng - an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; phải xác định đúng thế mạnh kinh tế đặc thù của từng vùng trong và ngoài tỉnh để khai thác có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của tỉnh như: Liên kết phát triển với vùng Đông Nam bộ (TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh); Tiểu vùng Đồng Tháp Mười (Tiền Giang, Long An, Đồng Tháp); Tiểu vùng Duyên hải phía Đông Đồng bằng sông Cửu Long (Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh)... Như các đồng chí đều biết, năm 2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết về 6 vùng kinh tế - xã hội của cả nước gồm: Vùng Trung du, miền núi Bắc bộ; vùng Đồng bằng sông Cửu Long; vùng Tây Nguyên; vùng Đông Nam bộ; vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải Trung bộ; vùng Đồng bằng sông Hồng nên Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam không còn. Do đó, các đồng chí cần có sự tính toán trong định hướng phát triển, liên kết phát triển ngay từ bây giờ và ở thời gian tới.
Hai là, thực hiện hiệu quả các giải pháp tạo nguồn thu, gia tăng nguồn thu thông qua khuyến khích, phát triển đa dạng các thành phần kinh tế để đảm bảo nguồn thu ngân sách một cách ổn định; kịp thời xử lý những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện, bảo đảm các khoản chi phải được giải ngân, thanh toán và phát huy hiệu quả, gắn với giao nhiệm vụ cụ thể cho từng sở, ban, ngành tỉnh và UBND các huyện, thành, thị.
Ba là, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các xã, huyện hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới theo kế hoạch, gắn với rà soát, đánh giá và xây dựng kế hoạch nâng chất các tiêu chí theo quy định mới để đến năm 2025 chúng ta ra mắt tỉnh nông thôn mới (Các đồng chí phải có sự quyết tâm cao, nỗ lực lớn trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; phải có sự phối hợp chặt chẽ, sự hỗ trợ và chia sẻ tích cực giữa địa phương với sở, ban, ngành tỉnh; đặc biệt là phải phát huy thật tốt nội lực và tranh thủ ngoại lực, xem nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng).
Nhiệm vụ, giải pháp thứ tư: Cần ưu tiên các giải pháp có tính đòn bẩy thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đi đôi với chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với lợi thế của tỉnh, của vùng và của từng địa phương. Đẩy nhanh tiến độ đầu tư kết cấu hạ tầng để ưu tiên mời gọi đầu tư, thu hút đầu tư phát triển Khu công nghiệp Bình Đông, Khu công nghiệp Tân Phước 1, Tân Phước 2; Cụm công nghiệp Gia Thuận 1, Gia Thuận 2. Tăng cường công tác phối hợp với các bộ, ban, ngành Trung ương, các cơ quan có liên quan và các tỉnh, thành để đẩy nhanh tiến độ thực hiện, sớm hoàn thành Dự án Nâng cấp mở rộng kinh Chợ Gạo (giai đoạn 2), cầu Mỹ Thuận 2, cầu Rạch Miễu 2, đường cao tốc An Hữu - Cao Lãnh. Tiếp tục triển khai các công trình, dự án trọng điểm của tỉnh đã được phê duyệt, bảo đảm tiến độ theo kế hoạch, tạo thuận lợi trong giao thương, đi lại của người dân như: Đường tỉnh 864, 873; nâng cấp, mở rộng đường tỉnh 879B, 861, 863, 869...
Nhiệm vụ, giải pháp thứ năm: Nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ của các ngành, các lĩnh vực kinh tế; tập trung ưu tiên cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; giải quyết có hiệu quả những khó khăn, hạn chế, yếu kém cả trước mắt và về lâu dài để giữ vững đà tăng trưởng theo hướng bền vững; chú trọng việc chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, gắn với tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường. Huy động tối đa các nguồn lực để thu hút đầu tư phát triển; rà soát, hoàn chỉnh chính sách ưu đãi đầu tư phù hợp với tình hình thực tế của tỉnh; tăng cường công tác phối hợp giữa các sở, ban, ngành tỉnh và các địa phương trong hướng dẫn, giải quyết thủ tục đầu tư, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho nhà đầu tư trong triển khai thực hiện dự án, đặc biệt là ở lĩnh vực về đất đai.
Nhiệm vụ, giải pháp thứ sáu: Quan tâm hơn nữa đến nhiệm vụ phát triển văn hóa, xã hội hài hòa và ngang tầm với phát triển kinh tế; bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trọng tâm là thực hiện có hiệu quả chính sách hỗ trợ, chăm lo cho người có công với nước, người nghèo, người có thu nhập thấp, người lao động bị mất việc làm; đổi mới chương trình, giáo trình và phương thức đào tạo, gắn kết chặt chẽ giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp, với thị trường lao động, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân (Về lý luận và thực tiễn đều cho thấy: Phát triển kinh tế là cơ sở, là tiền đề để thực hiện chính sách xã hội và thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; do đó, chúng ta phải xem đây là một chủ trương, chính sách có tính chiến lược, nhằm huy động mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế, của các tổ chức xã hội và của mọi người để giải quyết hài hòa các vấn đề xã hội với phát triển kinh tế, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội và giữa đời sống vật chất với đời sống tinh thần của nhân dân).
Nhiệm vụ, giải pháp thứ bảy: Các cấp ủy, chính quyền, các sở, ban, ngành và các địa phương cần rà soát lại các chỉ tiêu, kế hoạch từ nay đến năm 2025 đã đề ra trong Nghị quyết Đại hội, từ đó rút ra những việc cần tập trung, cần tháo gỡ với những giải pháp phù hợp, có phân công cụ thể cán bộ phụ trách, theo dõi để có sự chỉ đạo tập trung tốt nhất. Phải đề cao vai trò, trách nhiệm, tính chủ động của cấp ủy, chính quyền, của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, đặc biệt là vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu và sự ủng hộ, đồng thuận của người dân.
Mặt khác, phải phát huy cho được tính năng động, sáng tạo của từng cấp ủy viên, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức với vị trí công tác và nhiệm vụ được phân công; tiếp tục nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, đảng viên; thường xuyên kiểm tra, giám sát, chấn chỉnh việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương gắn với đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức suy thoái về tư tưởng chính trị, về đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và có hành vi tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; rà soát bổ sung quy hoạch gắn với công tác đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh quy hoạch; thực hiện công tác điều động, luân chuyển, sắp xếp cán bộ để thử thách, rèn luyện, chuẩn bị về nhân sự cho nhiệm kỳ 2025 - 2030 và cả những nhiệm kỳ tiếp theo...
Ban Thường vụ Tỉnh ủy giao các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy phụ trách các huyện, thị và đồng chí Bí thư cấp ủy cấp huyện chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và các chỉ tiêu, nhiệm vụ của Nghị quyết Đại hội đảng bộ ở cấp mình, với quyết tâm đạt kết quả cao nhất.
Ban lãnh đạo, Ban Thường vụ các sở, ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể tỉnh theo chức năng, nhiệm vụ của mình tiếp tục nêu cao tinh thần đoàn kết, trách nhiệm, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành với quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu và các nhiệm vụ được giao.
Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh lãnh đạo UBND tỉnh chỉ đạo các sở, ban, ngành tỉnh tự kiểm tra, rà soát lại các chỉ tiêu, các nhiệm vụ đã đặt ra để xác định cụ thể giải pháp, lộ trình cần tập trung cho những năm còn lại, đặc biệt là các chỉ tiêu, các nhiệm vụ về phát triển kinh tế - xã hội.
Đảng đoàn HĐND tỉnh lãnh đạo nâng cao chất lượng thẩm định, thẩm tra các tờ trình, ban hành các nghị quyết, bảo đảm đúng quy trình, quy định, đảm bảo tính khả thi nhằm phục vụ kịp thời cho quá trình phát triển của tỉnh; đồng thời, thường xuyên theo dõi, giám sát chặt chẽ việc triển khai thực hiện của UBND tỉnh, của các sở, ban, ngành tỉnh và của chính quyền các địa phương.
Bằng niềm tin và trách nhiệm, tôi tin tưởng các đồng chí sẽ phát huy tốt những kết quả đã đạt được trong nửa nhiệm kỳ qua; luôn đoàn kết, gắn bó, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, thử thách; nêu cao tinh thần trách nhiệm, tính nêu gương, năng động, sáng tạo với quyết tâm hoàn thành thật tốt các chỉ tiêu, mục tiêu và các nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết Đại hội đảng bộ các cấp, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng bộ tỉnh và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
NGUYỄN VĂN DANH
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội đơn vị tỉnh Tiền Giang
(*) Đầu đề do Báo Ấp Bắc đặt