Đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam: Mở ra không gian phát triển kinh tế mới
Tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV đã chính thức thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư Dự án Đường sắt tốc độ cao (ĐSTĐC) trên trục Bắc - Nam (gọi tắt là Dự án). Việc đầu tư dự án mở ra không gian phát triển kinh tế mới; tạo tiền đề quan trọng để đưa nước ta trở thành nước phát triển, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của cả nền kinh tế Việt Nam...
NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ
Tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV đã dành nhiều thời gian thảo luận về Dự án này. Nhiều đại biểu Quốc hội tán thành cao chủ trương đầu tư Dự án với những cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý và lý do đã được nêu tại Tờ trình 767 của Chính phủ.
Đại biểu Quốc hội tỉnh Tiền Giang tham gia thảo luận tại tổ về chủ trương đầu tư Dự án ĐSTĐC trên trục Bắc - Nam. |
Mục tiêu xây dựng tuyến ĐSTĐC hiện đại, đồng bộ nhằm đáp ứng nhu cầu vận tải, tạo động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, phát huy lợi thế trên hành lang kinh tế Bắc - Nam, bảo đảm kết nối hiệu quả các hành lang Đông - Tây và các nước trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế, góp phần hiện thực hóa mục tiêu, nhiệm vụ theo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII và các nghị quyết của Đảng.
Dự án có tổng chiều dài tuyến khoảng 1.541 km; điểm đầu tại ga Ngọc Hồi (Thủ đô Hà Nội), điểm cuối tại ga Thủ Thiêm (TP. Hồ Chí Minh), đi qua địa phận 20 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm: Thủ đô Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh.
Về quy mô, Dự án đầu tư mới toàn tuyến đường đôi khổ 1.435 mm, tốc độ thiết kế 350 km/h, tải trọng 22,5 tấn/trục; 23 ga hành khách, 5 ga hàng hóa; phương tiện, thiết bị; ĐSTĐC vận chuyển hành khách đáp ứng yêu cầu lưỡng dụng phục vụ quốc phòng, an ninh, có thể vận tải hàng hóa khi cần thiết. Hình thức đầu tư công, áp dụng công nghệ đường sắt chạy trên ray, điện khí hóa; bảo đảm hiện đại, đồng bộ, an toàn và hiệu quả.
Sơ bộ tổng nhu cầu sử dụng đất của Dự án khoảng 10.827 ha, gồm: Đất trồng lúa khoảng 3.655 ha, đất lâm nghiệp khoảng 2.567 ha và các loại đất khác theo quy định của pháp luật về đất đai khoảng 4.605 ha. Số dân tái định cư khoảng 120.836 người.
Tổng mức đầu tư của Dự án khoảng 1.713.548 tỷ đồng; nguồn vốn ngân sách nhà nước bố trí trong các kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn và nguồn vốn hợp pháp khác...
DỰ ÁN ĐƯỢC ÁP DỤNG CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH ĐẶC THÙ, ĐẶC BIỆT
Theo Nghị quyết, Dự án sẽ được áp dụng cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt như: Trong quá trình thực hiện Dự án, Thủ tướng Chính phủ được quyết định phát hành trái phiếu Chính phủ để bổ sung dự toán và kế hoạch đầu tư hằng năm; huy động vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn vay ưu đãi nước ngoài để thực hiện Dự án; sử dụng nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách trung ương hằng năm (nếu có) và các nguồn vốn hợp pháp khác…
Thủ tướng Chính phủ quyết định điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm vốn ngân sách trung ương giữa các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương để bố trí vốn cho Dự án.
Đồng thời, Nghị quyết cũng quy định cụ thể về phát triển, khai thác quỹ đất và giá trị tăng thêm từ đất vùng phụ cận ga ĐSTĐC như: UBND cấp tỉnh tổ chức lập, điều chỉnh quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết vùng phụ cận ga đường sắt để xác định vị trí, ranh giới, diện tích đất thu hồi…
HĐND cấp tỉnh quyết định sử dụng ngân sách địa phương để triển khai dự án đầu tư công độc lập thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy hoạch vùng phụ cận ga đường sắt để tạo quỹ đất đấu giá nhằm phát triển đô thị theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, Nghị quyết cũng nêu cụ thể áp dụng cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt đối với việc khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường phục vụ Dự án; về bãi đổ chất thải rắn xây dựng và tầng đất mặt của đất chuyên trồng lúa nước; phát triển khoa học, công nghệ và tuyển dụng đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực cho Dự án; về phát triển công nghiệp và chuyển giao công nghệ; cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư được quyết định việc phân chia Dự án thành các dự án thành phần, tiểu dự án khi phê duyệt dự án đầu tư; về thẩm quyền quyết định điều chỉnh chủ trương đầu tư Dự án, điều chỉnh Dự án; về công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; về chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác và tạm sử dụng rừng; về lập tổng mức đầu tư, dự toán gói thầu; cơ chế, chính sách bảo đảm phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực…
Theo Nghị quyết, Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội trong việc: Tổ chức thực hiện, quản lý đầu tư Dự án theo đúng Nghị quyết này và quy định của pháp luật có liên quan; bảo đảm Dự án đúng tiến độ, chất lượng; quản lý, sử dụng vốn và các nguồn lực tiết kiệm, hiệu quả, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; thông tin đầy đủ để người dân hiểu, đồng thuận về chủ trương đầu tư Dự án; chỉ đạo tổ chức việc quản lý, vận hành, khai thác, bảo trì bảo đảm an toàn, hiệu quả.
Trong quá trình vận hành, khai thác, trên cơ sở đề xuất của các địa phương, Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư bổ sung một số vị trí nhà ga tại các khu đô thị có nhu cầu vận tải lớn. Các địa phương, Tập đoàn Điện lực Việt Nam chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc bảo đảm tiến độ, chất lượng công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và các tiểu dự án được giao tổ chức thực hiện.
Đồng thời, tổ chức kiện toàn Ban Quản lý dự án chuyên ngành bảo đảm đủ năng lực thực hiện quản lý đầu tư Dự án. Tổng công ty Đường sắt Việt Nam tiếp nhận quản lý, bảo trì kết cấu hạ tầng và tổ chức vận hành, khai thác; huy động các doanh nghiệp khác đầu tư phương tiện; tiếp tục tái cơ cấu, xây dựng mô hình quản lý, bảo trì kết cấu hạ tầng bảo đảm thống nhất, hiện đại, hiệu quả; tham gia phát triển công nghiệp đường sắt.
THU HOÀI