Thứ Sáu, 15/08/2025, 09:02 (GMT+7)
.
HƯỚNG TỚI KỶ NIỆM 80 NĂM CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (19-8-1945 - 19-8-2025) VÀ QUỐC KHÁNH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM (2-9-1945 - 2-9-2025)

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người làm nên mùa thu lịch sử

Cách đây 80 năm, Nhân dân ta đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vĩ đại, một mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX. Thắng lợi đó bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh giữ vai trò quyết định.

TỪ SỰ CHUẨN BỊ LỰC LƯỢNG VỀ MỌI MẶT

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra và giành thắng lợi trên toàn quốc trong vòng 2 tuần, nhưng trên thực tế, Đảng ta đã trải qua một quá trình chuẩn bị trong 15 năm, từ khi Đảng ta ra đời (ngày 3-2-1930). Trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng, chủ trương chuẩn bị lực lượng chính trị được khẳng định bằng việc đoàn kết rộng rãi các giai cấp, tầng lớp Nhân dân và các tổ chức đảng phái yêu nước do Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp vô sản lãnh đạo.

Bác Hồ về nước ngày 28-1-1941 sau cuộc hành trình 30 năm tìm đường cứu nước, cứu dân để  trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.                                                                                       Ảnh: Tư liệu
Bác Hồ về nước ngày 28-1-1941 sau cuộc hành trình 30 năm tìm đường cứu nước, cứu dân để trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Ảnh: Tư liệu

Trong Sách lược vắn tắt xác định: Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh bọn đại địa chủ và phong kiến. Đảng xây dựng khối đoàn kết rộng rãi với các giai cấp, các tầng lớp Nhân dân yêu nước và các tổ chức cách mạng, chỉ đánh đổ các lực lượng và các đảng phái phản cách mạng, phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp.

Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư sản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ.

Trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936 - 1939), Đảng ta đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, sáng tạo ra hình thức tập hợp lực lượng mới, huy động quần chúng, tập dượt quần chúng, phát động phong trào quần chúng rộng rãi đấu tranh đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ.

Ngay từ đầu năm 1941, khi chuẩn bị về nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổ chức lớp học và trực tiếp huấn luyện chính trị cho cán bộ. Tiếp đó, rất nhiều hình thức huấn luyện, đào tạo cán bộ được tổ chức tại căn cứ địa Việt Bắc và các chiến khu, các địa phương nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị và cán bộ quân sự.

Ngày 14 và 15-8-1945, tại Tân Trào (Tuyên Quang) đã diễn ra Hội nghị Toàn quốc của Ðảng, Ðảng ta nhận định: Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới.

Lệnh Khởi nghĩa - Quân lệnh số 1 của Ủy ban Khởi nghĩa được ban bố: “Chúng ta phải hành động cho nhanh, với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng! Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta”.

Cũng ở thời điểm lịch sử đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh có Thư Kêu gọi tổng khởi nghĩa nêu rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Đặc biệt, trong các nhà tù đế quốc, mặc dù bị kẻ thù kiểm tra chặt chẽ, các chiến sĩ cách mạng vẫn tổ chức được nhiều lớp huấn luyện và luyện tập quân sự. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ được đào tạo trong giai đoạn này hầu hết là những thanh niên giàu lòng yêu nước và tinh thần đấu tranh, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, đi sát quần chúng, nhanh chóng phát huy vai trò tiên phong của mình trong cao trào đấu tranh của quần chúng và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình trong Cách mạng Tháng Tám.

Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương diễn ra từ ngày 10 đến 19-5-1941 đã quyết định thành lập ở mỗi nước trên bán đảo Đông Dương một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, với những tên dễ hiểu, có ý nghĩa cho từng dân tộc.

Ở Việt Nam, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Tháng 10-1941, Tổng bộ Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ nói rõ tôn chỉ, mục đích của Mặt trận Việt Minh: “Liên hiệp hết thảy các tầng lớp Nhân dân không phân biệt tôn giáo, đảng phái, xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật, giành quyền độc lập cho xứ sở”.

Với mục đích, tôn chỉ và tổ chức như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử đấu tranh cách mạng của Nhân dân ta, một khối đoàn kết toàn dân được kiến tạo rộng rãi, vững chắc và phát triển mạnh mẽ từ Bắc đến Nam, ở miền ngược và miền xuôi, ở nông thôn và thành thị, tạo nên sức mạnh tổng hợp vĩ đại, góp phần to lớn giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Từ các cuộc khởi nghĩa, lực lượng vũ trang địa phương lần lượt ra đời. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940) dẫn tới sự ra đời của Đội Du kích Bắc Sơn. Khởi nghĩa Nam kỳ (23-11-1940) dẫn tới sự xuất hiện nhiều tổ chức vũ trang với tên chung là Quân du kích Nam kỳ.

Cuộc binh biến Đô Lương, Nghệ An (13-1-1941) báo hiệu thời kỳ đấu tranh giành chính quyền bắt đầu ở cả ba miền. Trên cơ sở sự ra đời của các lực lượng vũ trang địa phương, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (5-1941), nhận định: “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang”, vì thế chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân ta.

Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, đây là sự kiện trọng đại trong lịch sử xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng và sự nghiệp đấu tranh giải phóng của Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ngày 15-5-1945, lễ hợp nhất các tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam thành Việt Nam Giải phóng quân được tổ chức. Theo đó, Cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thống nhất thành lực lượng bộ đội chủ lực, lấy tên là Việt Nam Giải phóng quân.

Như vậy, từ những “đội tự vệ” đầu tiên được tổ chức ở Nghệ Tĩnh những năm 1930 - 1931, từ một trung đội du kích quân (Cứu quốc quân) đầu tiên ra đời ở Bắc Sơn cuối năm 1940 và từ một Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập ở Cao Bằng cuối năm 1944, đến Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã chuẩn bị được một lực lượng vũ trang cách mạng khá đông và rộng rãi, góp phần quan trọng đưa sự nghiệp khởi nghĩa vũ trang của toàn dân đến thắng lợi.

ĐẾN VẬN DỤNG THỜI CƠ KHỞI NGHĨA GIÀNH THẮNG LỢI

Khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9-3-1945, Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày 12-3-1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã đề ra một Cao trào kháng Nhật cứu nước để làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Cao trào ấy bao gồm từ hình thức bất hợp tác, bãi công, bãi thị cho đến những hình thức cao hơn như biểu tình thị uy vũ trang, du kích...

Đình Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, nơi diễn ra Quốc dân Đại hội do Việt Minh triệu tập vào tháng 8-1945, quyết định Tổng khởi nghĩa, bầu ra Ủy ban dân tộc giải phóng do  Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.                                                                                                                                   Ảnh: Tư liệu
Đình Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, nơi diễn ra Quốc dân Đại hội do Việt Minh triệu tập vào tháng 8-1945, quyết định Tổng khởi nghĩa, bầu ra Ủy ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Ảnh: Tư liệu

Chỉ thị cũng nêu rõ nơi nào thấy so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng thì tiến hành khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền từng bộ phận và sẵn sàng chuyển qua hình thức Tổng khởi nghĩa một khi đã đủ điều kiện.

Từ năm 1940 - 1945, tình hình quốc tế và trong nước biến chuyển sôi động, nhanh chóng, xuất hiện không chỉ thời cơ thuận lợi mà cả những thách thức, nguy cơ đối với cách mạng nước ta. Trong bối cảnh ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự mẫn cảm đặc biệt trong phân tích, đánh giá tình hình, dự báo xu thế và triển vọng của cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta đã mau chóng đưa ra những quyết định sáng suốt, kịp thời. Đây là thời kỳ thể hiện nổi bật nhất sự lãnh đạo, chỉ đạo nhạy bén, sáng suốt của Đảng gắn liền mật thiết với tầm nhìn xa trông rộng, trí tuệ và mưu lược, sáng tạo và bản lĩnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Năm 1944, tình hình thế giới có những chuyển biến mau lẹ, phong trào cách mạng trong nước đã phát triển mạnh mẽ. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Thư gửi đồng bào toàn quốc” tháng 10-1944 đã chỉ rõ: “Cơ hội cho dân tộc ta, giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc một năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh”.

Bên cạnh xây dựng lực lượng vũ trang, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh việc chuẩn bị căn cứ cách mạng làm chỗ dựa cho vũ trang khởi nghĩa. Với sự tích cực, chủ động, đến tháng 6-1945, Khu Giải phóng Việt Bắc đã được thành lập gồm các tỉnh: Cao - Bắc - Lạng - Hà - Tuyên - Thái, là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới, Khu Giải phóng Việt Bắc còn đóng vai trò là căn cứ địa quan trọng của tổng khởi nghĩa, nơi đặt cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến, vị trí đóng quân của lực lượng cách mạng; nơi cung cấp sức người, sức của cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

HỒNG LÊ

.
.
.