Căn bệnh nguy hiểm của nhịp sống hiện đại
Đái tháo đường (ĐTĐ) là một bệnh chuyển hóa đang có chiều hướng trẻ hóa, tăng nhanh trong cộng đồng và gây nhiều ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Nếu không được điều trị tốt và kịp thời, thì bệnh nhân ĐTĐ sẽ bị những biến chứng nặng nề và có thể dẫn đến tử vong.
ĐTĐ là căn bệnh rối loạn chuyển hóa thường gặp ở người cao tuổi. |
CĂN BỆNH NGUY HIỂM
Theo Bác sĩ Chuyên khoa II Lê Thúy Phượng, Trưởng khoa Nội A, Bệnh viện Đa khoa trung tâm tỉnh, bệnh ĐTĐ có 2 tuýp chính. ĐTĐ tuýp 1 là bệnh tự miễn. Cơ thể không thể sản sinh ra lượng insulin nữa. Do vậy, glucose không thể ra khỏi máu; đồng thời, các tế bào không nạp được lượng glucose cần thiết để cung cấp cho cơ thể một cách thích hợp.
ĐTĐ tuýp 2 là bệnh phổ biến hơn và thường phát triển theo thời gian. ĐTĐ tuýp 2 thường xảy ra âm thầm. Khi biểu hiện rõ thì bệnh đã có biến chứng đe dọa tính mạng. Bên cạnh đó, ĐTĐ tuýp 2 còn là nguyên nhân hàng đầu gây ra các biến chứng tử vong do bệnh tim mạch, tăng huyết áp, tổn thương võng mạc mắt gây mù, suy thận…
Dấu hiệu nhận biết bệnh ĐTĐ là khát nước nhiều, đi tiểu nhiều hơn bình thường, mệt mỏi, mắt nhìn mờ, có các vết nứt trên da hoặc vết thương lâu lành, thường xuyên có các nhiễm trùng (đường tiểu), sụt cân nhiều… Những người có yếu tố nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ gồm nhóm người trên 45 tuổi, có tăng huyết áp, rối loạn lipid máu; người trong thời gian mang thai mắc bệnh ĐTĐ; người có tiền sử sinh con trên 4 kg hoặc có cha, mẹ, anh, chị, em ruột bị ĐTĐ.
Những người trên 45 tuổi có nguy cơ mắc ĐTĐ tuýp 2 cao hơn 4,42 lần so với những người dưới 45 tuổi. Những người có huyết áp tăng, có tiền sử rối loạn lipid máu, có vòng eo lớn sẽ có nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ cao hơn (tương ứng 3,45 lần, 2,73 lần, 2,6 lần) so với những người bình thường.
Ở Việt Nam, tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ hiện tại chiếm gần 3% dân số, tỷ lệ này đã tăng gấp đôi so với 10 năm trước. Điều đáng quan tâm là tại Việt Nam có tới 63,6% người mắc bệnh ĐTĐ trong cộng đồng không được phát hiện bệnh, trong đó cao nhất ở vùng Tây Nam bộ (72,1%) và thấp nhất là vùng duyên hải miền Trung (56,7%).
Kiến thức của người dân về bệnh ĐTĐ cũng rất hạn chế, có tới hơn 90% người dân có kiến thức rất thấp về yếu tố nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ và có chưa tới 5% người dân có kiến thức tốt về cách phòng tránh cũng như điều trị căn bệnh này. ĐTĐ là bệnh có mối liên hệ chặt chẽ với chế độ ăn uống và lối sống sinh hoạt. Do đó, chế độ dinh dưỡng hợp lý có vai trò rất quan trọng trong điều trị và phòng chống bệnh ĐTĐ.
CHẾ ĐỘ DINH DƯỠNG HỢP LÝ
Chế độ dinh dưỡng cho bệnh nhân ĐTĐ cần đảm bảo các nguyên tắc: Thực đơn nên có nhiều loại thực phẩm để đủ thành phần các chất dinh dưỡng (phải có từ 15 đến 20 loại thực phẩm mỗi ngày); chia thành nhiều bữa nhỏ trong ngày; nên ăn 3 bữa chính và 1 - 3 bữa phụ; không nên để quá đói cũng không nên ăn quá no để tránh tình trạng hạ đường huyết khi đói hoặc tăng đường huyết sau khi ăn. Đặc biệt là hạn chế thực phẩm gây tăng đường huyết như: Gạo chà trắng, bánh, kẹo, đường tinh luyện, nước ép trái cây…
Sử dụng vừa đủ với nhu cầu cơ thể các thực phẩm ít làm tăng đường huyết như: Cá ít béo, thịt nạc, đậu hũ, rau, củ, quả ít ngọt, sữa ít béo không đường. Hạn chế ăn mặn và các thực phẩm chế biến sẵn như: Mì tôm, chả giò, chả lụa, mỡ động vật, da, nội tạng động vật…
Tránh chế biến những món ăn hầm nhừ, xay nhuyễn, chiên, nướng vì kích thước thành phần món ăn càng nhỏ chỉ số làm tăng đường huyết sẽ càng tăng. Đặc biệt, cần uống đủ từ 1,5 đến 2 lít nước mỗi ngày và nên hạn chế uống bia, rượu.
Cách tốt nhất để phát hiện bệnh ĐTĐ là thường xuyên kiểm tra lượng đường trong máu. Bệnh ĐTĐ hiện dù không thể chữa khỏi nhưng hoàn toàn có thể kiểm soát và phòng tránh được, bằng cách điều chỉnh lối sống, có chế độ dinh dưỡng hợp lý và tăng cường hoạt động thể lực.
MAI HÀ