Thứ Tư, 05/08/2020, 17:28 (GMT+7)
.

Về thăm Nhà lưu niệm Soạn giả - Liệt sĩ Trần Hữu Trang

Nhắc đến những vở cải lương: Tô Ánh Nguyệt, Lan và Điệp, Đời cô Lựu… hẳn giới nghệ sĩ và những người yêu thích cải lương ai cũng biết đó là những tác phẩm của Soạn giả Trần Hữu Trang. Những tác phẩm của ông phản ánh một cách rõ nét thực trạng xã hội đương thời, đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng khán giả. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của ông có ý nghĩa lịch sử quan trọng đối với Nam bộ nói chung và tỉnh ta nói riêng. Khi đã về “bên kia thế giới”, những giá trị mà ông tạo ra vẫn tiếp tục được truyền lại cho thế hệ sau và sống mãi trong lòng người mộ điệu.

Nhà lưu niệm Soạn giả - Liệt sĩ Trần Hữu Trang được xây dựng khang trang.
Nhà lưu niệm Soạn giả - Liệt sĩ Trần Hữu Trang được xây dựng khang trang.

LÀ MỘT NGHỆ SĨ CÓ TINH THẦN DÂN TỘC 

Theo tư liệu thu thập được từ Bảo tàng Tiền Giang, Soạn giả Trần Hữu Trang còn gọi Tư Trang, sinh năm 1906, tại thôn Phú Khương, trước đó là thôn Phú An, tổng Thạnh Quơn, quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho (nay là ấp Phú Khương B, xã Phú Kiết, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang), trong một gia đình nông dân, cha là thầy dạy học. Từ nhỏ ông đã say mê nghệ thuật đàn hát. Sau khi gia đình bị phá sản, ông lên Sài Gòn kiếm sống và gặp được người quen là ông Năm Châu (tức Nguyễn Thành Châu, soạn giả cải lương, thầy tuồng, một trong những diễn viên có tên tuổi lúc bấy giờ), nên ông đi theo gánh hát Năm Châu làm những việc nhắc tuồng, thư ký chép tuồng gánh hát và hay đờn ca, làm thơ trong những lúc rảnh rỗi.

Thấy ông có khả năng làm thơ và yêu thích nghệ thuật cải lương, nên ông Mười Giảng (tức Đặng Công Danh, thầy tuồng của đoàn hát) đã tận tình hướng dẫn, dạy ông viết tuồng. Ông đã bắt đầu sáng tác kịch bản cải lương và cho ra mắt kịch bản đầu tay Lửa đỏ lòng son lúc ông 22 tuổi (năm 1928). Đến những năm 1930, ông đã cho ra đời hàng loạt tác phẩm: Tô Ánh Nguyệt (năm 1934), Hoa rơi cửa Phật (tức vở Lan và Điệp, năm 1936), nhất là Đời cô Lựu (năm 1937) được các nghệ sĩ tài danh: Trần Đắc, Lê Thị Phỉ (Năm Phỉ), Phụng Hảo, Nguyễn Thành Châu (Năm Châu)… thể hiện rất thành công. Những năm sau đó, ông tiếp tục cộng tác cùng các soạn giả Năm Châu, Lê Hoài Nở sáng tác các vở:  Tìm hạnh phúc, Mộng hoa vương, Chị chồng tôi, Tình lụy hay Khi người điên biết yêu và tiếp tục gây tiếng vang lớn trong công chúng từ thành thị đến nông thôn, góp phần trong việc phổ biến và phát triển nghệ thuật cải lương lúc bấy giờ.

Là một nghệ sĩ có tinh thần dân tộc, tháng 8-1945 ông tham gia cách mạng tại xã nhà. Năm 1947, ông được phân công lên Sài Gòn hoạt động trong Hội Liên Việt. Để có điều kiện hoạt động công khai, ông thành lập gánh cải lương “Con Tằm” và sau đó là gánh cải lương “Phước Chung”. Lúc bấy giờ, gánh Phước Chung là gánh cải lương duy nhất ở nước ta được quản lý và hoạt động theo cung cách mới dựa trên nguyên tắc dân chủ, tập thể và bình đẳng. Năm 1948, ông cùng các ông Nguyễn Thành Châu (Năm Châu), Nguyễn Long Vân (Ba Vân) thành lập Ban Việt kịch “Năm Châu”, nhằm lợi dụng sân khấu để tập hợp văn nghệ sĩ hoạt động yêu nước theo sự chỉ đạo của ông Mai Văn Bộ, Ủy viên Tuyên truyền của Thành hội Liên Việt TP. Sài Gòn. Đó là quan điểm được xem là cách tân và táo bạo lúc bấy giờ. Với chức trách Chủ tịch Hội Tương tế ái hữu nghệ sĩ, ông luôn là người đi đầu trong việc giúp đỡ, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho giới nghệ sĩ sân khấu. Với bản tính hiền lành, nếp sống đức độ, chuẩn mực, hòa đồng… nên ông luôn được giới nghệ sĩ thương mến và kính trọng.

Với những đóng góp to lớn trong sự nghiệp cách mạng và quá trình hoạt động nghệ thuật, cố soạn giả Trần Hữu Trang đã được Nhà nước truy tặng Huân chương Thành đồng, danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân và Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học - nghệ thuật đợt I (năm 1996), cùng nhiều Huân chương, Huy chương và giải thưởng cao quý khác. Ông mất đi nhưng tên tuổi còn sống mãi trong lòng nhân dân ta nói chung và giới mộ điệu cải lương nói riêng. Tên ông còn được đặt tên cho một con đường, một ngôi trường ở TP. Hồ Chí Minh, một Nhà hát và một giải thưởng lớn trong lĩnh vực nghệ thuật sân khấu cải lương…

Năm 1954, một số văn nghệ sĩ tập kết ra Bắc, ông tiếp tục ở lại hoạt động trong phong trào hòa bình Sài Gòn - Chợ Lớn. Ông hăng hái tham gia kháng chiến, hoạt động trong phong trào bảo vệ hòa bình Sài Gòn - Chợ Lớn, đấu tranh đòi chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện Hiệp định Genève thống nhất đất nước và các quyền dân sinh dân chủ. Những năm 1956 - 1957, ông trở về quê tiếp tục hoạt động cách mạng và chủ trì nhiều cuộc họp bí mật tại nhà (gồm ông Hiếu, ông Nhạ, ông Thanh Giang và bà Mã Thị Chu…

tham dự). Năm 1960, ông ra vùng giải phóng, tham gia Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và được bầu làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng. Ngoài công tác quản lý Hội, ông còn tập trung sáng tác vở cải lương Nguyễn Văn Trỗi, nhưng mới chỉ xong phần một thì ngày 1-10-1966 ông đã hy sinh sau một cuộc oanh kích khốc liệt của máy bay B.52 Mỹ vào trụ sở của Hội Văn nghệ Giải phóng ở chiến khu miền Đông Nam bộ.

NHÀ LƯU NIỆM - NƠI TƯỞNG NHỚ MỘT SOẠN GIẢ TÀI BA

Trao đổi với chúng tôi trong Nhà lưu niệm Soạn giả - Liệt sĩ Trần Hữu Trang, ông Trần Hữu Thường (con trai út của Soạn giả Trần Hữu Trang), cho biết: “Cha tôi sinh ra ở Tiền Giang, nơi đầu tiên tham gia cách mạng cũng tại quê nhà… Có lẽ vì lẽ đó mà Nghệ sĩ Nhân dân Trần Ngọc Giàu, Giám đốc Nhà hát Trần Hữu Trang đứng ra bàn với ngành Văn hóa TP. Hồ Chí Minh vận động anh em nghệ sĩ, các nhà hảo tâm kinh phí để xây dựng Nhà lưu niệm Soạn giả - Liệt sĩ Trần Hữu Trang tại nơi “chôn nhau cắt rốn” của ông như một sự tri ân người chiến sĩ cách mạng đã có nhiều đóng góp trên mặt trận văn hóa tư tưởng của nước nhà và lưu giữ những giá trị tinh thần mà ông để lại cho đời ngay tại quê hương ông...”.

Nhà lưu niệm Soạn giả - Liệt sĩ Trần Hữu Trang được xây dựng tại phần đất của gia đình soạn giả Công trình được xây dựng với tổng kinh phí trên 800 triệu đồng, trong đó Nhà hát Trần Hữu Trang vận động ủng hộ 600 triệu đồng, phần còn lại do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tiền Giang vận động. Công trình được khởi công năm 2017. Hiện nay, Nhà lưu niệm được ông Trần Hữu Thường lo việc hương khói.

GIA TUỆ

.
.
.