Bài 3: Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh
Bài 1: Khi "Tổ quốc gọi tên mình"
Bài 2: Đứng giữa lằn ranh sự sống và cái chết
Bài 4: Rưng rưng ngày đại thắng…
Bài cuối: Thắm đượm truyền thống "Uống nước nhớ nguồn"
Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh! Đó không chỉ là lý tưởng sống, chiến đấu của Tiểu đội Quyết tử, với 3 “chiến sĩ gang thép”: Nguyễn Văn Đừng, Đỗ Văn Trạch (bí danh Công) và Hùng, Tiểu đội 1, Trung đội 2, Đại đội 1, Tiểu đoàn 261, mà là lý tưởng chủ đạo của người chiến sĩ cách mạng. Chính vì vậy, nhiều người khi bị thương nhưng vẫn bám chặt công sự, chắc tay súng hướng về kẻ thù nả đạn, để rồi tiếp tục bị thương và hy sinh, mang theo niềm tin vào ngày mai chiến thắng…
Đồng đội. Ảnh: Đoàn Công Tính |
TIỂU ĐỘI QUYẾT TỬ
Chúng tôi gặp lại người cựu Chính trị viên Đại đội 1, Tiểu đoàn 261 Phạm Văn Thư (TP. Bến Tre, tỉnh Bến Tre) trong những ngày tỉnh ta chuẩn bị kỷ niệm 50 năm Chiến thắng Ấp Bắc (2-1-1963 - 2-1-2013). 50 năm đã trôi qua, người cựu Chính trị viên Đại đội 1, Tiểu đoàn 261 Phạm Văn Thư (chú Tám Thư) đã bước sang tuổi 85, nhưng ký ức về Tiểu đội Quyết tử vẫn còn nguyên vẹn trong tâm khảm.
Giọng nói chậm rãi, nhưng mạch lạc, khúc chiết, chú Tám kể: Đại đội 1 (Tiểu đoàn 261) của chú có tổ chức 1 tiểu đội quyết tử để khi gặp phải tình huống gay go nhất của trận đánh thì Tiểu đội Quyết tử phải đi đầu, chấp nhận hy sinh.
Chính vì vậy, Tiểu đội Quyết tử được lựa chọn rất kỹ về thành phần gia đình, tư tưởng, quá trình chiến đấu... Và điều không thể thiếu, đó là chiến sĩ trong Tiểu đội Quyết tử phải là tay súng cự phách. Do đó, là chiến sĩ của Tiểu đội Quyết tử thì rất vinh dự.
Trong đội hình của Đại đội 1, Tiểu đội 1 của Trung đội 2 do anh Nguyễn Văn Đừng làm Tiểu đội trưởng được chọn làm Tiểu đội Quyết tử. Trong trận đánh Ấp Bắc, Tiểu đội 1 của anh Đừng nằm ngay cửa chính đánh xe tăng. Khoảng từ 11 đến 12 giờ ngày 2-1-1963, xe tăng của địch tiến vào địa hình của ta tổng cộng 5 lần, nhưng đều bị đánh bật ra.
Đợt tấn công cuối cùng, địch rất hung hãn. Được sự yểm trợ của pháo binh, phi cơ, xe tăng M.113 lù lù tiến vào địa hình của ta. Do ta không có vũ khí phòng tăng nên chỉ huy cấp trên lệnh cho Tiểu đội 1: Súng trường nhắm vào xích xe tăng mà bắn, lựu đạn cũng phải ném dưới lườn xe.
Chú Lê Công Sơn (tên thường gọi Lê Hùng Hưởng hay chú Sáu Huẩn), Chính trị viên, kiêm Trung đội Trưởng Trung đội 3, Đại đội 1, Tiểu đoàn 261 nhớ lại: Lúc ấy, khẩu trung liên của Tiểu đội anh Đừng bị kẹt đạn. Anh Đừng lệnh cho Nghĩa lùi về phía sau để sửa chữa khẩu trung liên. Xe tăng của địch vẫn hung hãn trườn tới, gần sát đến công sự của Tiểu đội 1. Hỏa lực của ta nả đạn để kiềm chế bước tiến của xe tăng nhưng bất lực.
Nếu để xe tăng càn lên công sự thì không chỉ nhiều anh em phải hy sinh mà địa hình cũng không được giữ vững. Xe tăng chỉ còn cách công sự trong gang tấc, anh Đừng bật dậy khỏi công sự, tay cầm thủ pháo (quả Bta) tự chế lao về phía xe tăng… Căng thẳng đến nghẹt thở. Anh Đừng ném quả thủ pháo vào xe tăng. Một tiếng nổ lớn vang rền. Xe tăng bốc cháy ngùn ngụt. Anh Đừng trúng đạn hy sinh…
Học sinh viếng mộ 3 “Chiến sĩ gang thép”. Ảnh: Nguyên Chương |
Không ngờ bộ đội có thể đánh cháy xe tăng, địch dừng lại rồi rút lui. Không để xe tăng địch rút lui dễ dàng, anh Hùng, Tiểu đội phó Tiểu đội 1 bật dậy nhắm vào xích xe tăng nả đạn. Địch bắn trả quyết liệt. Anh Hùng trúng đạn hy sinh…
Anh Đỗ Văn Trạch (bí danh là Công) và đồng đội tiếp tục chiến đấu. Tiểu đội 1 dùng khẩu trom long bắn hạ thêm 1 xe tăng và đứt xích 1 xe tăng nữa. Không để địch rút lui, anh Trạch bật lên tiếp tục nả đạn. Và anh Trạch lại trúng đạn hy sinh khi chưa tròn 19 tuổi… Chiến thuật “thiết xa vận” của địch bị bẻ gãy. Xe tăng không dám tiến vào địa hình nữa...
Chú Sáu Huẩn bồi hồi nhớ lại: Chú và 3 “chiến sĩ gang thép” ở chung đại đội nên anh em cũng thường gặp và hay đùa giỡn với nhau. Anh Đừng đã được kết nạp Đảng, còn anh Trạch và Hùng là đoàn viên thanh niên. Anh Đừng và anh Trạch có mặt trong Tiểu đoàn 261 ngay từ những ngày đầu mới thành lập (năm 1961), còn anh Hùng đến năm 1962 mới vào Tiểu đoàn.
Cả 3 anh đều rất kiên trì, là xạ kích giỏi trong lớp học quân sự do đồng chí Bảy Đen trực tiếp huấn luyện. Chú Sáu bùi ngùi: Trong những lần tâm sự với nhau, các anh đều hạ quyết tâm sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.
CHO NGÀY MAI ĐỘC LẬP
Thiếu tướng Nguyễn Văn Lưỡng (Sáu Lưỡng) cho biết, ở mỗi đơn vị đều có bộ phận hay tiểu đội quyết giữ. Trong trận đánh, tiểu đội quyết giữ là một bộ phận từ phía sau có nhiệm vụ lên tiếp sức, quyết giữ tuyến đang đánh. Tiểu đội quyết giữ không được rút lui dù trận đánh ác liệt đến mức nào, vì vậy có thể phải hy sinh.
Tuy nhiên, không chỉ có bộ phận quyết giữ mới chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, mà người chiến sĩ cách mạng nào khi ra trận cũng đều chiến đấu với tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Nhiều anh em bộ đội khi bị thương nếu còn sức chiến đấu vẫn tiếp tục bám chặt công sự, chắc tay súng quyết một mất một còn với địch. Không ít người đã bị thương, tiếp tục chiến đấu rồi bị thương tiếp và… hy sinh.
Chú Sáu Lưỡng cho biết, trong suốt những năm tháng chiến tranh, có gần chục trận chú bị thương nhưng vẫn kiên quyết ở lại trận địa để chỉ huy và chiến đấu. Anh em khuyên chú nên rời sở chỉ huy, về tuyến sau để được quân y chăm sóc, nhưng chú quyết ở lại chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, dù có phải hy sinh.
Còn Đại tá Lê Dũng, khi bị thương nặng, được đơn vị sắp xếp đưa ra Bắc an dưỡng, nhưng đã cương quyết xin đơn vị cho ở lại để tiếp tục chiến đấu. Với người chiến sĩ cách mạng - bộ đội Cụ Hồ, được cầm súng chiến đấu là một nhiệm vụ thiêng liêng, cao cả…
40 năm đã trôi qua, cứ ngỡ thời gian ít nhiều đã xóa nhòa đi ký ức về những người đồng đội cũ. Nhưng không, khi nhắc về những năm tháng chiến đấu, hình ảnh những người đồng đội thân yêu đã từng vào sinh ra tử chợt ùa về, nguyên vẹn trong lòng những người cựu chiến binh mà chúng tôi đã gặp.
Chú Sáu bùi ngùi: Từ ngày tham gia cách mạng đến khi giải phóng, đồng đội của chú có khoảng hơn 300 người đã ngã xuống cho ngày mai độc lập, thống nhất đất nước. Trận hy sinh nhiều nhất là 17 đồng chí, đó là trận đánh ở Trà Lọt (huyện Cái Bè). Tất cả họ đều chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, với lý tưởng vì độc lập dân tộc và niềm tin vào ngày mai chiến thắng.
Đại tá Lê Dũng cũng bùi ngùi: Đơn vị Biệt động Thành đội Mỹ Tho khoảng 20 anh em, nhưng đến ngày giải phóng thì không còn bao nhiêu, nhiều người đã anh dũng hy sinh cho ngày mai độc lập. Còn gia đình chú có 4 người tham gia cách mạng, khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước chỉ còn 2 người trở về.
Tuy nhiên, theo Đại tá Lê Dũng, như thế đã là may mắn, vì trong ấp của chú (ấp Hòa Mỹ, xã Bình Ninh, huyện Chợ Gạo), có gia đình 3 người tham gia cách mạng thì khi hòa bình không còn người nào trở về; toàn ấp hiện có 100 liệt sĩ, 12 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Hầu hết liệt sĩ trong ấp Hòa Mỹ đều hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ.
Trong quá trình thu thập tư liệu để viết loạt bài này, chúng tôi đã lần giở từng trang danh sách các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Và chúng tôi không khỏi bùi ngùi khi đọc qua các trích lược: Mẹ Trần Thị Bảy (Mỹ Đức Đông, Cái Bè): 6 con hy sinh; mẹ Trần Thị Chính (Mỹ Đức Đông, Cái Bè): chồng và 5 con hy sinh; mẹ Nguyễn Thị Đâu (Tân Hòa, Gò Công Đông): 5 con hy sinh; mẹ Võ Thị Lược (Long Tiên, Cai Lậy): 5 con hy sinh; mẹ Nguyễn Thị Nhung (Mỹ Hạnh Trung, Cai Lậy): 5 con hy sinh…
Hiện nay toàn tỉnh có 33.000 liệt sĩ, trong đó có 25.070 liệt sĩ hy sinh trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước; có 5.001 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, hiện còn sống 485 mẹ, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng có nhiều con hy sinh nhất là 6 con…
Chỉ dẫn ra một vài con số trên cũng đủ thấy chiến tranh tàn khốc đến mức độ nào. Người cựu chiến binh 3 lần bị thương - Nguyễn Hấn (Tám Hớ), ấp Tân Phong, xã Tân Hội, TX. Cai Lậy cho biết: Khi tham gia cách mạng, ai cũng biết có thể hy sinh, nhưng cứ người này ngã xuống thì người khác đứng lên, tiếp bước cha anh tiếp tục chiến đấu.
Chiến tranh khốc liệt như thế, sống - chết chỉ là một lằn ranh mong manh. Thế nhưng điều gì khiến người chiến sĩ cách mạng không hề nao núng tinh thần, xem sự hy sinh chỉ như một chuyến đi - về? Thiếu tướng Nguyễn Văn Lưỡng giải thích: Đó là vì Tổ quốc thiêng liêng; vì tinh thần độc lập dân tộc; vì niềm tin tuyệt đối vào Đảng, vào Bác Hồ, niềm tin vào ngày mai chiến thắng…
NGUYÊN CHƯƠNG
(còn tiếp)