Thứ Sáu, 18/04/2014, 08:44 (GMT+7)
.

Để mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến phát triển bền vững

Nuôi tôm quảng canh cải tiến (bao gồm cả luân canh tôm - lúa) được xem là mô hình nuôi tôm sú có hiệu quả ổn định, bền vững do ít dịch bệnh so với nuôi tôm theo hình thức thâm canh và bán thâm canh. Tuy nhiên, do tình hình thời tiết diễn biến ngày càng phức tạp, nguồn nước tự nhiên ngày càng ô nhiễm, cộng với những bất ổn nội tại nên cần phải thực hiện nhiều giải pháp hỗ trợ để mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến (QCCT) tiếp tục phát triển bền vững.

“Sống khỏe” với đầm tôm quảng canh

Trong những năm gần đây, mặc dù điều kiện thời tiết diễn biến phức tạp nhưng hoạt động nuôi tôm theo hình thức QCCT cũng khá thuận lợi, phần lớn các hộ nuôi đều có lợi nhuận khá.

Ông Nguyễn Văn Trí, nông dân có đầm nuôi luân canh tôm - lúa hơn 2 ha ở xã Phú Tân, huyện Tân Phú Đông cho biết, tháng 12-2012 ông thả nuôi 200 ngàn con tôm sú giống với giá 20 đồng/con. Sau khi thu hoạch tôm thì tiến hành cải tạo đầm nuôi tiếp tục gieo sạ lúa.

Kết thúc vụ sản xuất năm 2013, ông thu hoạch 900 kg tôm sú, bán với giá 120 ngàn đồng/kg. Bên cạnh đó, ông còn thu hoạch được 8 tấn lúa, bán với giá 5.000 đồng/kg và 900 kg tôm, cua, cá tự nhiên, bán với giá 60 ngàn đồng/kg. Sau khi trừ tất cả chi phí, ông còn lãi 120 triệu đồng.

Nuôi tôm quảng canh cải tiến được xem là mô hình có hiệu quả, ổn định và bền vững (Ảnh chụp ở xã Phú Tân, huyện Tân Phú Đông).
Nuôi tôm quảng canh cải tiến được xem là mô hình có hiệu quả, ổn định và bền vững (Ảnh chụp ở xã Phú Tân, huyện Tân Phú Đông).

Theo ông Trí, thời gian thu hoạch tôm nuôi QCCT ở đây tùy thuộc vào việc chăm sóc, số vụ nuôi trong năm và hình thức nuôi của mỗi hộ. Đối với nuôi tôm 1 vụ/năm, thời gian nuôi mỗi vụ thường kéo dài từ 150-160 ngày, còn nếu nuôi tôm 2 vụ/năm thì thời gian nuôi từ 90 - 100 ngày.

Năng suất tôm trung bình đối với mô hình nuôi tôm QCCT mỗi vụ khoảng 370 kg/ha, còn mô hình luân canh tôm - lúa có năng suất tôm mỗi vụ khoảng 327 kg/ha và năng suất lúa trung bình 3,7 tấn/ha. Năng suất tôm, cua, cá tự nhiên bình quân mỗi vụ thu được từ mô hình nuôi tôm QCCT, luân canh tôm - lúa cũng đạt 50 kg/ha.

Theo kết quả khảo sát của Chi cục Thủy sản, hiện nay toàn tỉnh có 2.098 ha nuôi tôm quảng canh cải tiến (bao gồm luân canh tôm - lúa), tập trung ở huyện Tân Phú Đông. Trong đó, trung bình mỗi hộ nuôi tôm QCCT có diện tích đất 3,9 ha, luân canh tôm - lúa 1,8 ha.

Thời gian cải tạo ao nuôi tôm trước khi thả tôm giống trong mô hình QCCT và luân canh tôm - lúa từ 2 - 3 tuần, tập trung vào tháng 10 - 11 hàng năm. Phần lớn hộ nuôi tôm đều thực hiện cải tạo ao trước khi thả giống với các công đoạn như nạo vét bùn đáy ao, bón vôi khử trùng và diệt tạp. Số vụ trung bình nuôi tôm QCCT và luân canh tôm - lúa là 1 vụ/năm, với 90,8% số hộ thả giống từ tháng 11 năm trước đến tháng 1 năm sau và chỉ có 9,2% số hộ có thả giống vụ 2 vào các tháng 4, 5.

Các hộ nuôi tôm QCCT thường thả tôm giống với mật độ 12 con/m2, còn hộ nuôi tôm luân canh tôm - lúa thả tôm giống với mật độ 10 con/m2. Kích cỡ tôm giống thả nuôi trung bình là post 15 với giá tôm sú giống bình quân 29 đồng/con. Tôm giống chủ yếu có nguồn gốc từ Vũng Tàu, miền Trung, các trại sản xuất giống ở địa phương và các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Theo chiết tính của nhiều hộ nuôi, tổng chi phí đầu tư cho nuôi tôm QCCT mỗi vụ khoảng 7 triệu đồng/ha, luân canh tôm - lúa 11 triệu đồng/ha. Tổng lợi nhuận từ mô hình nuôi tôm QCCT mỗi vụ bình quân đạt 40 triệu đồng/ha, luân canh tôm - lúa 50 triệu đồng/ha. Trong đó, mô hình nuôi luân canh tôm - lúa mang lại tỷ lệ thành công cao nhất, với 70% số hộ nuôi có lợi nhuận, còn tỷ lệ thành công của mô hình nuôi QCCT đạt khoảng 50%.

Cần hỗ trợ để mô hình phát triển bền vững

Hiện nay, Tiền Giang chưa có quy hoạch riêng vùng nuôi tôm thâm canh, bán thâm canh với mô hình nuôi tôm QCCT, luân canh tôm - lúa nên mầm bệnh từ các mô hình nuôi có thể ảnh hưởng lẫn nhau, trong đó mô hình nuôi tôm QCCT bị ảnh hưởng nhiều nhất do không có điều kiện sát trùng nguồn nước trước khi thả tôm giống.

Hệ thống thủy lợi phục vụ cho nuôi thủy sản chủ yếu là sử dụng chung với sản xuất nông nghiệp nên chưa đáp ứng được yêu cầu. Ý thức của người nuôi trong việc lựa chọn con giống thả nuôi có chất lượng chưa được quan tâm đúng mức, đa số còn thả nuôi con giống chưa qua kiểm dịch, chất lượng giống thấp với giá rẻ.

Theo kết quả khảo sát của Chi cục Thủy sản, hầu hết người nuôi tôm QCCT chỉ dựa vào kinh nghiệm bản thân, chưa ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nhiều vào trong canh tác. Thiếu sự liên kết, hợp tác trong cộng đồng người dân ở từng khu vực và giữa các bên có liên quan. Chưa có nguồn lúa giống phù hợp, năng suất cao cho vùng đất đang canh tác. Không có vốn đầu tư sản xuất, hầu hết các hộ nuôi tôm trên địa bàn tỉnh không tiếp cận được nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước.

Do diện tích nuôi rất lớn nên hệ thống ao lắng trong nuôi tôm QCCT, luân canh tôm - lúa chưa được hộ nuôi quan tâm, trong khi đó nguồn nước cấp vào ao chủ yếu lấy trực tiếp từ kinh, rạch và phụ thuộc vào thủy triều để lấy nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm nuôi.

So với những năm trước đây thì tình hình dịch bệnh trên tôm diễn biến ngày càng phức tạp. Tôm thường xuất hiện bệnh nhiều nhất là đốm trắng, giai đoạn tôm thường xuất hiện bệnh là từ lúc thả cho đến giai đoạn tôm được 30 ngày tuổi. Tuy nhiên, người nuôi thường thiếu kiến thức về phòng, trị bệnh, chưa chú ý đến chất lượng tôm giống, thời tiết không ổn định, nguồn nước xấu.

Để mô hình nuôi tôm QCCT phát triển bền vững hơn trong thời gian tới, ông Phan Hữu Hội, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản cho rằng, các cơ quan chức năng cần tổ chức các khóa tập huấn về kỹ thuật nuôi thủy sản, điểm trình diễn mô hình nuôi cho người dân để nâng cao ý thức sử dụng tôm giống chất lượng cao, kích cỡ lớn đối với các hộ nuôi tôm QCCT, vận động người dân xây dựng mô hình nuôi tôm mang tính cộng đồng, có trách nhiệm; đồng thời, Nhà nước cần có kế hoạch nạo vét lại hệ thống kinh, rạch đảm bảo nguồn nước luôn lưu thông tốt, đủ nước để phục vụ cho sản xuất và nuôi thủy sản.

Khuyến khích người nuôi thả tôm với mật độ vừa phải. Các ban ngành, trường, viện có liên quan cần quan tâm nghiên cứu tìm ra các giống lúa có chất lượng tốt, năng suất cao, kháng được sâu bệnh, có khả năng thích nghi trong vùng nhiễm phèn, mặn.

Ngoài ra, cần có chính sách hỗ trợ vốn vay với lãi suất ưu đãi, thời gian vay trung hạn hoặc dài hạn để người nuôi có nguồn vốn tiếp tục tái sản xuất; hỗ trợ con giống cho vùng nuôi luân canh tôm - lúa để góp phần thúc đẩy mô hình nuôi phát triển ngày càng bền vững.

THÀNH CÔNG

.
.
.