Thứ Năm, 02/04/2015, 09:10 (GMT+7)
.

Họp báo Chính phủ tháng 3: Giải đáp nhiều vấn đề nóng

Tại cuộc họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 3-2015 diễn ra chiều 1-4, Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP, Người phát ngôn Chính phủ Nguyễn Văn Nên cùng lãnh đạo các bộ, ngành đã giải đáp, làm rõ nhiều vấn đề nóng đang được báo chí và dư luận xã hội quan tâm.

Tóm tắt nội dung phiên họp Chính phủ thường kỳ dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng diễn ra cùng ngày, Bộ trưởnqg, Chủ nhiệm VPCP Nguyễn Văn Nên cho biết Chính phủ đã tập đánh giá tình hình KTXH tháng 3 và 3 tháng đầu năm.

Phiên họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 3/2015 - Ảnh: VGP/Quang Hiếu
Phiên họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 3-2015. Ảnh: VGP/Quang Hiếu

Điểm nổi bật nhất được Chính phủ đánh giá là qua tháng 3 và 3 tháng đầu năm, các bộ, ngành, địa phương đã quán triệt tinh thần của Trung ương, nghiêm túc triển khai các Nghị quyết của Quốc hội, của Chính phủ, khẩn trương đưa vào cuộc sống, đạt kết quả ghi nhận được bằng những con số. Nổi bật là tốc độ tăng trưởng GDP quý I đạt 6,03%. Trong điều kiện kinh tế vừa phục hồi, thì so với nhiều năm, đây là con số tăng trưởng cao, rất đáng ghi nhận.

Điểm nổi bật thứ hai là tăng trưởng công nghiệp. Nhiều năm nay, công nghiệp đã tăng trưởng khá ổn định, nhưng 3 tháng đầu năm nay, công nghiệp góp phần quan trọng cho tăng trưởng GDP, nhất là công nghiệp chế biến chế tạo.

Bên cạnh đó là ổn định vĩ mô. CPI tháng 3 đã tăng trở lại sau 4 tháng âm, đặc biệt là dù giá xăng dầu cũng như một số mặt hàng có điều chỉnh nhưng không ảnh hưởng lớn. Các cân đối lớn cơ bản ổn định.

Tuy nhiên, dù xuất khẩu vẫn tăng nhưng do nhập khẩu tăng cao dẫn đến nhập siêu trên 5% trong 3 tháng đầu năm, trong khi kế hoạch cả năm trình ra Quốc hội là 5%. Tất nhiên, con số này cũng không đáng quan ngại lắm vì khi kiểm tra lại thì phần chủ yếu của nhập khẩu, chiếm 92% nhập khẩu là máy móc, thiết bị phương tiện phục vụ sản xuất. Điều này khá lành mạnh với một nền kinh tế tăng trưởng và chúng ta đã dự báo được.

Tuy nhiên, những tồn tại, hạn chế cũng xuất hiện, có cái do chủ quan, có cái do khách quan. Nguyên nhân khách quan như thời tiết nóng hạn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, sản xuất của nhân dân một số vùng. Tăng trưởng sản xuất nông nghiệp có dấu hiệu giảm ở những cây chủ lực, ảnh hưởng đến sản xuất và xuất khẩu. Chính phủ yêu cầu tập trung tháo gỡ vấn đề này.

Một vấn đề nữa là Nghị quyết 19 về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh đã được ban hành. Cải cách thủ tục hành chính thời gian qua đã được triển khai quyết liệt nhưng một số nơi, một số lĩnh vực còn chưa triển khai mạnh, làm giảm hiệu quả chung. Tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước đến giờ này cơ bản đạt nhưng hiệu quả có mặt chưa đạt kết quả theo mong muốn.

Đó là một số nét để có thể thấy tình hình 3 tháng. Thời gian còn lại, Thủ tướng kết luận tập trung vào một số điểm sau đây, ngoài kế hoạch chung.

Trước tiên là tiếp tục tháo gỡ cho sản xuất, doanh nghiệp, theo đúng yêu cầu của Nghị quyết số 19. Các cấp, các ngành, các bộ phải tập trung làm mạnh mẽ, quyết tâm chính trị rất cao nhưng cần tổ chức thực hiện hiệu quả.

Thứ hai là chúng ta sắp tổ chức một kỳ thi chung, mọi việc đã chuẩn bị nhưng để đạt hiệu quả cao nhất, tránh sai sót thì phải theo dõi sát.

Tiếp đến là tình trạng thiếu nước, nắng hạn kéo dài, một số nơi có dấu hiệu thiếu lương thực giáp hạt, cần tập trung hết cả khả năng để giải quyết cho đồng bào, đặc biệt là đồng bào miền Trung, đồng bào các dân tộc.

Nội dung họp của Chính phủ lần này cũng có bàn về đề nghị của Ủy ban An toàn giao thông quốc gia về thay đổi một số biện pháp xử phạt hành chính với hành vi vi phạm. Chính phủ thấy rằng đề xuất này có khía cạnh tích cực, nhưng Nghị định 171 năm 2013 quy định biện pháp xử phạt hành chính trong lĩnh vực này đang thực hiện nhưng chưa có tổng kết.

Chính phủ giao Bộ GTVT tiếp tục theo dõi, nắm tình hình thực hiện Nghị định 171, tuyên truyền vận động để đồng thuận cao trong nhân dân trước khi đưa ra biện pháp xử phạt mới với vi phạm an toàn giao thông như báo chí đã đưa.

Một vấn đề nữa, khi chúng ta đang họp ở đây thì một số công nhân ở một số địa phương đang đình công do không chấp nhận Điều 60 Luật BHXH có hiệu lực từ  1-1-2016, yêu cầu giải  quyết vấn đề này. Chính phủ, Thủ tướng cũng đã bàn và có chủ trương. Khi các bạn đặt câu hỏi, chúng tôi sẽ thông báo đầy đủ hơn.

Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Nguyễn Văn Nên chủ trì phiên họp báo Chính phủ tháng 3/2015 - Ảnh: VGP/Quang Hiếu
Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP Nguyễn Văn Nên chủ trì phiên họp báo Chính phủ tháng 3-2015. Ảnh: VGP/Quang Hiếu

PV Mạnh Quân (báo Thanh Niên): Trong nhiều phiên họp chỉ đạo về kinh tế-xã hội, Thủ tướng luôn yêu cầu các quyết định cũng như chính sách của các bộ, ngành, địa phương khi ban hành ra có tác động lớn tới đời sống người dân và doanh nghiệp phải lấy ý kiến của đối tượng tác động. Gần đây, tại một số địa phương như Hà Nội với dự án thay thế cây xanh, dự án lấp sông Đồng Nai của tỉnh Đồng Nai là những dự án lớn, có sức ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường và môi sinh nhưng chưa được lấy ý kiến của người dân. Xin Bộ trưởng cho biết những việc làm đó có vi phạm quy định chỉ đạo của Chính phủ những luật có liên quan như: Luật Bảo vệ tài nguyên nước, Luật Môi trường không? Có những lợi ích cục bộ của địa phương hay những đơn vị triển khai không? Nếu có vi phạm Chính phủ sẽ xử lý như thế nào?

Bộ trưởng Nguyễn Văn Nên: Những ngày qua câu chuyện cây xanh của Hà Nội và kè sông Đồng Nai đã nghe nhiều nguồn thông tin phong phú và có thể nói rằng chúng ta đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm không chỉ riêng cho Hà Nội. Như ý bạn hỏi thì đến giờ này quan điểm của Chính phủ sẽ xử lý như thế nào, có sai phạm không, nếu có sẽ xử lý như thế nào.

Hiện nay Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã chỉ đạo Bộ NN&PTNT, Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với UBND tỉnh Đồng Nai xem xét tất cả các yếu tố có liên quan đến dự án kè sông Đồng Nai, sau đó báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét chỉ đạo nếu trong phạm vi chưa quá thẩm quyền thì Thủ tướng sẽ chỉ đạo trực tiếp.

Với TP. Hà Nội, Thủ tướng cũng đã giao cho Phó Thủ tướng chỉ đạo UBND TP. Hà Nội lập đoàn thanh tra xem xét toàn diện các yếu tố cần và đủ khi thực hiện dự án đó, sau khi có kết luận thanh tra mới biết sai chỗ nào, ai sai và sẽ xử lý theo quy định.

Nhưng về vấn đề này có thể rút ra một số bài học lớn, trước hết là về pháp lý. Sau khi chúng tôi nhận được báo cáo của TP. Hà Nội, Hà Nội cũng đã nhận thấy về mặt chủ trương là hoàn toàn đúng nhưng quá trình thực hiện có một số vấn đề chưa đầy đủ. UBND TP. Hà Nội đã dừng việc này và người đứng đầu thành phố là Bí thư thành ủy Hà Nội đã chỉ đạo tiếp tục xem xét, kiểm tra làm rõ, xử lý trách nhiệm nghiêm minh.

Những ngày qua, qua việc trao đổi thông tin, có ý kiến kiến nghị của nhà khoa học, nhà nghiên cứu, của người dân, đặc biệt là có những phóng viên phải lặn lội tìm cội nguồn có liên quan đến dự án này. Khi thanh tra chắc chắn sẽ xem xét yếu tố pháp lý của việc này, bởi vì đối với cây xanh của Thủ đô có Nghị định 64 và Luật Thủ đô điều chỉnh. Khi làm một dự án, tinh thần, chủ trương đúng nhưng quá trình làm có thực hiện đúng hay không thì chỉ có kiểm tra, thanh tra xong mới biết.

Vấn đề thứ hai cần phải xem xét trong quá trình thanh tra là việc quản lý. Vừa nãy bạn có nói là Thủ tướng chỉ đạo trong quá trình tổ chức thực hiện bất kì vấn đề nào có liên quan đến người dân, xã hội thì phải lấy ý kiến người dân theo quy chế dân chủ, bám sát các quy định tôn trọng việc lấy ý kiến người dân. Đã có quy định thì phải kiểm tra lại xem quy trình thực hiện có chỗ nào làm không đủ không. Chắc chắn quá trình thanh tra sẽ làm rõ điều đó.

Khi báo chí đăng tải thì có những quy định đã làm không chặt chẽ. Người ta nói rằng, trồng một loại cây thay thế một loại cây để thành phố đẹp hơn là rất tốt nhưng liệu những cây đó có hợp lý không? Có người nói rằng không hợp lý. Vấn đề này cũng phải thanh tra lại.

Chúng ta cũng không nên quên, trong bất kì việc gì có liên quan đến môi trường, đến cây xanh trong thành phố thì phải lưu ý đến khía cạnh đạo lý, khía cạnh không thể bỏ qua. Đó là cây lâu năm tồn tại bên cạnh con người cũng có hồn riêng. Quá trình muốn thay đổi khi thật sự cần thiết, thì phải được sự đồng thuận của người dân, cân nhắc đến tâm tư, tình cảm, kỉ niệm của người dân. Tất cả việc này trong quá trình thanh tra chắc chắn sẽ làm kĩ, tìm ra có sai chỗ nào không, thiếu chỗ nào không và sai thì sẽ tìm ra trách nhiệm của ai, cấp nào quản lý, thì cán bộ đó sẽ bị xử lý nghiêm minh.

Ở Đồng Nai cũng như vậy. Phó Thủ tướng đã chỉ đạo phải làm kĩ, lắng nghe ý kiến các nhà khoa học, xem xét các yếu tố pháp lý, khi kè bờ sông như vậy phải làm những thủ tục gì, phải lấy ý kiến ai, tính toán như thế nào.

Trong quá trình quản lý có dính líu đến các vấn đề giải tỏa, dân cư… trên một dòng sông mà không chỉ riêng sông Đồng Nai. Trong quá trình xử lý cần xem xét kĩ, phải nói là có những ý kiến rất hay mà nhà quản lý không thể bỏ qua. Cuối cùng, cũng phải xem xét lại tất cả những tình tiết, quá trình tổ chức thực hiện có gì cá nhân trong đó không, có sai phạm cố ý nào không, cán bộ cấp nào thì cấp đó bị xử lý.

Báo chí đã đăng tải rất nhiều những vấn đề có liên quan đến hai dự án này. Ở góc độ người quản lý, qua việc này chúng tôi rút ra rất nhiều bài học. Thủ tướng Chính phủ đã một lần nữa nhắc lại tại phiên họp rằng chúng ta triển khai bất kì việc gì, dù chúng ta có chủ trương đúng nhưng khi có sự phản ánh của quần chúng nhân dân, của số đông thì chúng ta nên dừng lại để tiếp tục xem xét, có sai thì sửa trên tinh thần cầu thị nghiêm túc.

PV Văn Thành (báo Tuổi trẻ TP. Hồ Chí Minh): Xin cho biết những chủ trương và giải pháp của Chính phủ liên quan đến việc công nhân đình công tập thể rất đông ở TP. Hồ Chí Minh liên quan đến Điều 60 Luật BHXH. Tại sao một chính sách tốt cho người lao động mà người ta lại phản ứng như vậy?

Bộ trưởng Nguyễn Văn Nên: Những ngày qua, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ rất sốt ruột chỉ đạo các ngành chức năng phối hợp với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và TP. Hồ Chí Minh làm hết sức mình để vận động, thuyết phục bà con, người lao động đang có những phản ứng về Điều 60 của Luật BHXH sắp có hiệu lực.

Và hôm nay, Chính phủ cũng đưa nội dung này vào bàn bạc, dành thời gian một cách thỏa đáng để bàn bạc kỹ và có hướng xử lý. Cũng tại cuộc họp Chính phủ hôm nay, Chính phủ đã nhận được kiến nghị của lãnh đạo TP. Hồ Chí Minh có một số đề xuất trùng hợp với ý kiến trong lời kêu gọi đã đăng tải công khai của Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Đặng Ngọc Tùng gửi toàn thể người lao động trong cả nước, giải thích về Điều 60 và ý định của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.

Sau khi bàn bạc, trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam có sự đồng tình, ủng hộ của Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân, Chính phủ đi đến thống nhất đánh giá rằng Điều 60 của Luật BHXH là một bước tiến lo cho người lao động ổn định lâu dài nhưng khi lấy ý kiến chuẩn bị cho hướng dẫn triển khai đưa luật đi vào cuộc sống thì gặp phải sự không đồng thuận của đa số người lao động, trước hết là tại một công ty ở TP. Hồ Chí Minh.

Sau khi bàn bạc, thống nhất, Chính phủ thấy rằng ý kiến, đề nghị của đa số công nhân đưa ra những ngày qua là chính đáng. Vì lẽ đó, Chính phủ thống nhất với đề nghị của lãnh đạo TP. Hồ Chí Minh và tinh thần lời kêu gọi của Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Đặng Ngọc Tùng.

Đó là Chính phủ sẽ kiến nghị với Quốc hội xem xét lại Điều 60, sửa một phần của Điều 60 là để cho người công nhân được chọn lựa giải quyết hưởng bảo hiểm một lần như hiện nay. Bởi vì thực tế có một bộ phận lớn công nhân thấy rằng điều kiện để thực hiện theo Điều 60 là không phù hợp với cuộc sống của họ.

Như vậy thì trước hết, như nội dung của lời kêu gọi của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là từ nay đến ngày 31-12-2015, mọi chế độ đang thực hiện không có gì thay đổi. Chính phủ đã thống nhất sẽ kiến nghị Quốc hội để xem xét lại Điều này và không có gì thay đổi thì khoảng 20-5 Quốc hội sẽ nhóm họp giữa năm. Chính phủ kiến nghị để Quốc hội xem xét lại.

Chúng tôi thấy rằng đề nghị của Chính phủ thể theo nguyện vọng chính đáng của đa số người lao động là hợp lý, phù hợp trong tình hình hiện nay. Trên cơ sở đó, chúng tôi cũng sẽ báo cáo, các bạn sẽ thông tin kịp thời lại và kêu gọi tất cả những người lao động hiện nay còn đang có những lo lắng, vướng mắc vấn đề này thì hãy yên tâm trở lại làm việc bình thường, đồng thời cũng hết sức bình tĩnh để không nghe những lời kích động, xúi giục làm trái đi nguyện vọng chính đáng của người lao động chúng ta.

Hãy tin tưởng rằng Chính phủ sẽ đề xuất, kiến nghị một cách đầy đủ tinh thần theo nguyện vọng chính đáng của người lao động hiện nay cũng như đề xuất của lãnh đạo TP. Hồ Chí Minh và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam ngay tại cuộc họp Chính phủ hôm nay. Tinh thần đó tôi đề nghị các báo hãy thuyết phục, vận động người lao động yên tâm lao động để đảm bảo những công việc theo kế hoạch của DN đề ra và không ảnh hưởng đến mọi hoạt động bình thường của DN hiện nay.

PV báo Một Thế Giới: Tôi có 2 câu hỏi gửi Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son. Vừa qua VTV có phản ánh Bộ TT&TT ban hành Thông tư 19 cách đây 6 năm là trái luật, có ảnh hưởng đến các đài truyền hình. Xin cho biết quan điểm về vấn đề này? Câu hỏi thứ hai, vừa qua Bộ đã cấp phép cho bao nhiêu chương trình liên kết của VTV?

Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son: Như chúng ta biết, để quản lý Nhà nước nói chung và trong lĩnh vực báo chí nói riêng, các cơ quan Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong đó quy định các bộ ban hành thông tư. Bộ Thông tin và Truyền thông triển khai theo đúng quy định tại Luật này.

Ngày 11-10-2006, để lập lại trật tự trong lĩnh vực báo chí, Bộ Chính trị có thông báo kết luận số 41 về công tác báo chí, trong đó chỉ rõ các giải pháp, khẳng định không có báo chí tư nhân, không để tư nhân núp bóng báo chí. Thông báo kết luận ghi rõ, xử lý nghiêm các báo vi phạm chủ trương, đường lối chính sách của Nhà nước, để tư nhân núp bóng liên doanh, liên kết bất hợp pháp. Thông báo cũng giao Chính phủ quy hoạch báo chí.

Thông tư 19 năm 2009 triển khai nội dung chỉ đạo này để báo chí thực hiện hoạt động liên kết tốt hơn. Điều 1 Luật Báo chí hiện hành ghi rất rõ, báo chí là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội. Như vậy, doanh nghiệp không có báo chí, trước đây một số tập đoàn, tổng công ty Nhà nước có báo chí, do một số cơ quan Nhà nước chuyển thành doanh nghiệp nên vẫn có báo chí.

Ví dụ trước đây báo VietNamNet thuộc doanh nghiệp, sau đó chuyển về Bộ TT&TT, đài VTC trước thuộc doanh nghiệp cũng đã về Bộ. Tuy nhiên, trước đây đã có hoạt động liên kết tự phát để tư nhân núp bóng báo chí.

Đến năm 2007, Bộ TT&TT ra đời. Dưới sự chỉ đạo của Thường trực Ban Bí thư Trương Tấn Sang, Chính phủ đã giao Bộ TT&TT đánh giá lại tình hình hoạt động báo chí nói chung và hoạt động liên kết nói riêng, xây dựng hành lang cho hoạt động liên kết này để quản lý chặt chẽ.

Việc liên kết là cần để huy động nguồn lực xã hội về tài chính và nhân lực nhưng chỉ liên kết trong các chương trình giải trí, chứ không được liên kết trong chương trình chính trị, xã hội. Luật Xuất bản cũng nói rõ chỉ liên kết khai thác bản thảo, biên tập sơ bộ bản thảo, in và phát hành xuất bản phẩm, còn bản hoàn chỉnh vẫn phải do nhà xuất bản phê duyệt; đối với tác phẩm, tài liệu có nội dung về lý luận chính trị, lịch sử, tôn giáo, chủ quyền quốc gia, hồi ký thì nhà xuất bản không được liên kết biên tập sơ bộ bản thảo. Còn với báo chí thì chưa có quy định này nên phải có quy định dưới luật để điều chỉnh.

Dự kiến trong tháng 6 tới đây, Bộ sẽ trình Chính phủ Luật Báo chí mới và trong tháng 10 sẽ trình Quốc hội. Trong khi chưa có luật quy định thì Ban Bí thư, Chính phủ yêu cầu phải có quy định, chế tài.

Trên cơ sở đó, VPCP có văn bản thông báo ý kiến Thủ tướng giao Bộ TT&TT xây dựng, trình Thủ tướng quy chế về liên kết. Và sau đó, Bộ TT&TT có 2 tờ trình báo cáo Thủ tướng.

Để xây dựng Thông tư này thì phải xin ý kiến các bộ, ngành. Bộ Tư pháp khẳng định Bộ TT&TT xây dựng văn bản này đúng quy định, quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đã lấy ý kiến Đài truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình TP. Hồ Chí Minh…, tiếp thu giải trình các vấn đề khác nhau.

Thông tư 19 được ban hành theo đúng quy định và đang có hiệu lực thi hành.

Gần đây, để tạo điều kiện cho một số đơn vị sự nghiệp, Nghị định 16 năm 2015 cũng ghi rõ tại điểm c, mục 2 Điều 5, việc liên doanh, liên kết với các tổ chức, cá nhân để hoạt động dịch vụ đáp ứng nhu cầu của xã hội phải theo quy định của pháp luật. Tất cả các đài phát thanh, truyền hình đều phải thực hiện quy định này.

Thông tư 19 đã tạo hành lang cho hoạt động liên kết, nhiều chương trình liên kết đã góp phần tạo nguồn thu cho các đơn vị. Vừa qua cơ bản chúng ta đã thực hiện tốt, bên cạnh đó có việc chưa thực hiện tốt, phải có chế tài. Các đài khi có vi phạm thì Bộ TT&TT căn cứ quy định hiện hành để xử lý.

Về câu hỏi thứ hai của phóng viên, thì các đài phát thanh, truyền hình đều được cấp phép, đặc biệt là VTV đã có 168 giấy phép, tức là rất tạo điều kiện cho các đài. Nhưng vừa qua, VTV có sai phạm, như phát sóng khi chưa có giấy phép, thì phải xử phạt. Chính phủ đã chuyển Bộ Tư pháp xem xét. Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường khẳng định trong quá trình các cơ quan Nhà nước xem xét thì Thông tư vẫn có hiệu lực.

Mỗi văn bản quy phạm pháp luật đều có tính lịch sử, việc sửa đổi cũng là cần thiết. Hiến pháp Việt Nam đã qua 4 lần sửa đổi, Luật BHXH mới chưa có hiệu lực mà có điều bất cập thì cũng có thể sửa. Nếu Thông tư 19 có điểm không còn phù hợp thì cũng phải sửa. Còn sửa theo hướng nào, xin công bố cho các đồng chí biết.

Mới đây, Bộ Chính trị đã có 2 thông báo kết luận, khẳng định trong tình hình hiện nay thì phải đặc biệt quản lý chặt công cụ quan trọng này, không để tự phát phát triển, phát triển báo chí đi đôi với quản lý tốt báo chí, không để lợi ích nhóm chi phối, báo chí không cần nhiều nhưng phải tinh, chất lượng.

Vấn đề tự chủ tài chính đối với báo chí cân nhắc cho phù hợp trên cơ sở phân định rõ báo chí phục vụ nhiệm vụ chính trị, báo chí thông tin tuyên truyền với nhiệm vụ giải trí thương mại. Như vậy, báo chí của chúng ta phải tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là các cơ quan báo chí chủ lực như VTV, VOV, TTXVN… phải làm tốt nhiệm vụ chính trị, bên cạnh đó cung cấp các các chương trình giải trí… nhưng nhiệm vụ chính trị là nhiệm vụ trọng tâm.

Chính phủ nghiên cứu quy định tự chủ về tài chính với một số báo còn lại theo hướng Nhà nước không bao cấp hết, khuyến khích các cơ quan làm tốt, lành mạnh, tự chủ tài chính nhưng không buông lỏng quyền chỉ đạo, quản lý. Như vậy, chúng ta được tự chủ tài chính nhưng nội dung thì không buông lỏng quản lý.

Đối với các đài quốc gia như VTV, VOV cần phải quản lý thống nhất chặt chẽ các khâu sản xuất nội dung chương trình, truyền dẫn phát sóng, bảo đảm yêu cầu nhiệm vụ chính trị. Nghị định 16 năm 2015 vừa qua cũng ghi rõ nội dung này.

Thông báo kết luận ngày 18-11-2014 của Bộ Chính trị cũng chỉ rõ định hướng là không có báo chí tư nhân nhưng trong hoạt động báo chí có liên kết với tư nhân thì phải định hướng, chỉ đạo, quản lý, đây là vấn đề rất quan trọng phải làm rõ.

Với tinh thần này, Thông tư 19 sẽ có một số vấn đề được sửa đổi bổ sung theo tinh thần chặt chẽ hơn, bảo đảm thu hút nguồn lực xã hội, tạo điều kiện cho các đài sản xuất các chương trình phong phú hơn nhưng chặt chẽ hơn. Không phải ngẫu nhiên mà Bộ TT&TT ra Thông tư này, không phải tạo khó khăn mà tạo thuận lợi cho các đài, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động liên kết.

PV Minh Hường (VTV): Xin hỏi Phó Thống đốc NHNN, trong thời gian gần đây, nhiều thương vụ mua bán, sáp nhập ngân hàng diễn ra rất mạnh mẽ. NHNN có chủ trương như thế nào để đảm bảo không ảnh hưởng đến thị trường tiền tệ và tâm lý của người gửi tiền?

Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh: Căn cứ vào số liệu thống kê trong quý I-2015 xuất khẩu của Việt Nam có sự suy giảm trong một số nhóm hàng, đặc biệt là nhóm hàng nông-lâm-thủy sản của Việt Nam sang các thị trường. Trong đó một số mặt hàng rất lớn của chúng ta như gạo, cà phê, cao su đều có sự suy giảm với mức độ trên dưới 30%.

Tính chung nhóm mặt hàng nông-lâm-thủy sản xuất khẩu trong quý I, suy giảm làm mất đi khoảng hơn 500 triệu USD. Bên cạnh đó, nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản cũng suy giảm đáng kể cả về khối lượng lẫn giá xuất khẩu và mức suy giảm làm chúng ta mất đi hơn 1 tỷ USD.

Qua phân tích đánh giá, chúng ta thấy có một số nguyên nhân. Trước tiên trong năm 2015, áp lực cân đối cung-cầu trên thị trường thế giới, nhất là các mặt hàng nông sản, tiếp tục có diễn biến khó khăn cho hàng xuất khẩu của chúng ta, đặc biệt là các mặt hàng như gạo, cà phê... Nguồn cung trong quý I trên thị trường thế giới có gia tăng dẫn đến áp lực cho các mặt hàng của Việt Nam cạnh tranh với các nước khác.

Thứ hai, giá cả của các mặt hàng như nhiên liệu, khoáng sản có sự sụt giảm đáng kể. Ví dụ dầu thô suy giảm rất lớn cuối 2015, đầu 2015 dẫn đến mặc dù lượng xuất khẩu một số mặt hàng khoáng sản tăng nhưng không bù nổi phần giá suy giảm.

Đi vào cụ thể một số mặt hàng như gạo, cà phê, cao su... thì thị trường Trung Quốc trong quý I có những diễn biến tương đối bất thường, việc nhập khẩu gạo và nông sản bị suy giảm. Qua phân tích, đánh giá chúng ta thấy chính sách vĩ mô điều hành của nước láng giềng có những thay đổi, ví dụ cấp hạn ngạch cho nhập khẩu gạo diễn ra rất nhỏ giọt, rất chậm dẫn đến các mặt hàng gạo, ngoài gạo xuất khẩu vào nước láng giềng suy giảm tới 30%. Một số thị trường truyền thống ở ASEAN như Philippines, Indonesia, Malaysia lượng hàng nhập khẩu không có những hợp đồng lớn cho quý I-2015.

Điều này khác với những năm trước chúng ta có những hợp đồng lớn của năm trước chuyển sang quý I của năm tiếp theo. Vì vậy lượng gạo của chúng ta xuất khẩu giảm rất lớn. Một số mặt hàng khác, ví dụ thủy sản, thiệt hại rất lớn do Mỹ tiếp tục áp dụng thuế chống bán phá giá ở mức cao gây khó khăn cho DN của chúng ta. Một số vấn đề liên quan đến tỷ giá đồng USD có xu hướng mạnh lên so với một số đồng tiền khác như Euro làm giảm nhu cầu nhập khẩu từ các thị trường.

Vì vậy tựu chung lại, trong quý I-201,5 tăng trưởng xuất khẩu của chúng ta chỉ đạt 6,9% trong khi kế hoạch của chúng ta đăng ký với Quốc hội là 10%; đồng thời như Bộ trưởng, Chủ nhiệm VPCP đã thông báo là nhập siêu trở lại với mức hơn 5%.

Tình hình này chúng tôi cũng không cho là bất ngờ bởi trong dự báo đánh giá, chúng ta dự kiến quý I-2015 sẽ có những khó khăn trong công tác thị trường. Ngoài những nguyên nhân kể trên, chúng ta cũng phải thấy rằng năng lực sản xuất hàng xuất khẩu của chúng ta đạt ngưỡng cao của những năm 2013-2014, vì vậy, tăng trưởng những năm tiếp theo sẽ khó khăn hơn.

Thứ hai vấn đề liên quan đến thị trường nông sản tiếp tục gặp khó khăn do cung cầu trên thế giới áp lực lớn đến chúng ta khi các nước xuất khẩu khác như Thái Lan với kho dự trữ gạo rất lớn đang tìm cách tiêu thụ và đẩy ra thị trường thế giới làm giá trên thị trường thế giới giảm sâu, nhất là những mặt hàng như gạo của Việt Nam.

Thứ ba là những khó khăn biến động tỷ giá, và những ảnh hưởng khác mà chúng ta cũng đã dự báo. Vì vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong phát triển kinh tế-xã hội là phải tìm cách thúc đẩy xuất khẩu, phát triển bền vững thông qua các biện pháp mở rộng tìm kiếm thị trường mới.

Trong năm 2015, hàng loạt hiệp định thương mại tự do đang được tiếp tục triển khai và đưa vào cuộc sống. Chúng ta có Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào cuối năm 2015, đàm phán TPP, hiệp định thương mại tự do với Liên minh châu Âu, Liên minh Thuế quan đang được triển khai tích cực...

Hàng loạt hiệp định thương mại tự do khác với Hàn Quốc, Chile đã được triển khai, có hiệu lực, đang mở ra cơ hội cho chúng ta thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu. Việc xây dựng văn bản hướng dẫn các khuôn khổ này, thể chế hóa nó để phục vụ DN nhằm thúc đẩy cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh của DN Việt Nam là những nội dung cơ bản trong năm 2015.

Bên cạnh đó, việc tiếp tục ổn định vĩ mô, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, sản xuất, xuất khẩu cũng là những nội dung quan trọng trong nghị quyết của Chính phủ. Như Nghị quyết 19 đã có nội dung rất rõ yêu cầu tất cả các bộ, ngành tập trung tạo điều kiện thuận lợi nhất cho DN, cho sản xuất, cho điều phối lưu thông, đặc biệt cho xuất khẩu để đảm bảo yêu cầu của chúng ta.

Trong đó một trong những nội dung lớn mà Bộ Công Thương và các bộ, ngành thực hiện theo chỉ đạo của Thủ tướng là tiếp tục CCHC, tháo gỡ khó khăn theo hướng đơn giản hóa cho các thủ tục thông quan, kể cả các thủ tục hải quan cũng như thủ tục khác liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu.

Thứ ba, chúng ta phải tích cực tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, hướng tới chất lượng, đổi mới các hình thức xúc tiến thương mại, gắn kết chặt chẽ nhu cầu của các ngành hàng, của DN, hướng thị trường trọng tâm, trọng điểm có nhu cầu lớn, tiềm năng để tháo gỡ khó khăn cho các sản phẩm, DN của chúng ta để tiếp cận thị trường.

Thứ tư là tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành để hỗ trợ cho các DN đặc biệt là DN sản xuất hàng xuất khẩu và từng bước cùng với các DN tạo cơ chế thực hiện các hoạt động liên kết thúc đẩy sản xuất, ví dụ trong các ngành công nghiệp chế biến nông sản, thủy sản để tạo thuận lợi, tạo thành chuỗi giá trị, từng bước có điều thuận lợi hơn trong xâm nhập thị trường và cạnh tranh thuận lợi hơn trên thị trường quốc tế.

Thứ năm là tiếp tục tăng cường chỉ đạo cho các cơ quan đại diện, cơ quan xúc tiến thương mại để cung cấp thông tin thị trường, nghiên cứu phát triển thị trường, đồng thời giải quyết có hiệu quả các tranh chấp thương mại quốc tế bảo vệ lợi ích của DN Việt Nam trên cơ sở các cam kết hội nhập quốc tế và công cụ của WTO.

Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng: Trước hết, theo Quyết định 254 của Chính phủ, trong quá trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng, những chủ trương, quan điểm xuyên suốt quá trình tái cơ cấu là quá trình liên tục, không chỉ tái cơ cấu đối với các tổ chức tín dụng yếu kém mà còn tái cơ cấu các tổ chức tín dụng tốt và chưa tốt.

Đối với những TCTD tốt thì tự tái cơ cấu để tốt hơn, đối với tổ chức tín dụng chưa tốt cũng sẽ có những cách thức để tự tái cơ cấu. Trong quá trình tái cơ cấu đó, bản thân các TCTD yếu kém hoặc bình thường đều có thể tự nguyện trao đổi, thỏa thuận và đi đến thống nhất xây dựng đề án tái cơ cấu trình NHNN phê duyệt.

Thời gian qua, từ năm 2011 đến nay quá trình tái cơ cấu đã xử lý được những bước căn bản, xử lý các ngân hàng yếu kém, là nguyên nhân gây ra biến động của thị trường tiền tệ và ngân hàng trong giai đoạn cách đây 3 năm. Trong giai đoạn này, NHNN cũng đang chủ trương thực hiện đúng theo lộ trình của đề án 254 và với vai trò quản lý Nhà nước về hoạt động ngân hàng của mình.

Quan điểm, chủ trương cũng là nhằm đảm bảo việc tái cơ cấu nằm trong tầm kiểm soát của Nhà nước và tránh đổ vỡ hệ thống. Trong quá trình đó, NHNN theo dõi rất sát diễn biến tình hình của từng tổ chức tín dụng cũng như của toàn hệ thống để có những giải pháp phù hợp hỗ trợ thanh khoản kịp thời, đồng thời đảm bảo an toàn.

Thời gian qua, NHNN cũng nhận được sự quan tâm chỉ đạo rất sát sao của Chính phủ, sự phối hợ chặt chẽ của các bộ ngành, đặc biệt là các cơ quan truyền thông đã giúp cho việc chuyển tải các chủ trương về tái cơ cấu, làm cho người dân, người gửi tiền, bản thân thị trường rất yên tâm về sự an toàn của hệ thống.

PV Infonet: Vừa qua theo phản ánh của người dân, công ty SJC đã cắt giảm việc thu mua vàng đầu vào SJC có cùng series. Phải chăng bây giờ SJC được độc quyền vàng miếng của Nhà nước nên đã bắt chẹt người tiêu dùng khi tự ý ra quyết định giảm giá thu mua đầu vào 40.000 đồng so với mức giá thông thường của công ty này. Ngân hàng Nhà nước với tư cách quản lý công ty SJC có giải pháp gì để người tiêu dùng không bị thiệt thòi khi nắm giữ vàng miếng?

Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng: Liên quan đến việc này, SJC có thông báo điều chỉnh giảm giá 40.000 đồng/lượng khi mua vàng miếng. Sau khi có thông tin báo chí phản ánh, NHNN đã yêu cầu lãnh đạo NHNN chi nhánh TPHCM làm việc trực tiếp với lãnh đạo của SJC và cũng yêu cầu công ty SJC báo cáo.

Và theo thông tin của NHNN chi nhánh TPHCM, chiều nay công ty SJC cũng đã chủ động thu hồi thông báo và đảm bảo là người mua vàng SJC để lưu trữ và giá mua vào công ty là bằng nhau.

PV báo Tuổi TrẻXin được hỏi Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, thường ở thời điểm quý I của năm, tăng trưởng GDP là thấp; tuy nhiên năm nay, mức tăng trưởng 6,03% là rất cao, khiến mộtsố Bộ trưởng tỏ ra "khá bất ngờ". Vậy xin được hỏi mức tăng trên là nhờ đâu? Những khu vực nào có đóng góp vào mức tăng trưởng quan trọng này? Thời gian công bố chỉ số thống kê của Việt Nam thường rất sớm, trước khi kết thúc quý. Vậy điều này có ảnh hưởng gì không tới độ chính xác của kết quả thống kê này?

Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Bích Lâm: Trước hết, tôi phải nói rằng tốc độ tăng trưởng quý I hằng năm thường thấp, còn quý I năm nay có tốc độ tăng trưởng cao so với những năm khác. Điều đó thể hiện dấu hiệu rằng nền kinh tế của chúng ta đang phục hồi và dần đi vào thế ổn định, phát triển.

Kinh tế quý I năm nay tăng lên là do 2 khu vực lớn: Đó là khu vực công nghiệp, xây dựng và các ngành dịch vụ, sản xuất kinh doanh. Cụ thể, khu vực công nghiệp, xây dựng là 8,35%; đóng góp 2,82 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung, cao nhất trong giai đoạn từ 2011-2014.

Trong 8,35% đó thì riêng ngành công nghiệp tăng 9,01%, góp 2,61 điểm phần trăm cho tăng trưởng. Trong công nghiệp, công nghiệp khai khoáng, khai thác tăng rất mạnh. Đặc biệt, trong lĩnh vực khai khoáng thì dầu thô là lĩnh vực tăng mạnh, cụ thể là tăng 9,8%, tăng so với năm trước là 373.000 tấn. Chúng ta biết rằng nếu tăng 1 triệu tấn/năm thì GDP tăng 0,16%. Như vậy, nếu tăng 373.000 tấn trong một quý thì làm cho tăng trưởng rất là mạnh.

Khu vực dịch vụ, tất cả các dịch vụ kinh doanh đều có tăng trưởng tốt, ví dụ như khu vực bán buôn, bán lẻ và sửa chữa có mức tăng trưởng cao (7,11%), dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng cao hơn cùng kỳ năm trước (5,9%); trong khi năm trước tăng 4,9%.

Chúng tôi đã tính toán, kiểm chứng lại, qua các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và các chỉ tiêu khác để xem sự tin cậy, tính chính xác của chỉ tiêu này như thế nào.

Năm nay, sản lượng điện tăng 12,8% mà điện dùng cho sản xuất năm nay tăng rất mạnh. Chúng tôi thống kê được điện dùng cho sản xuất của quý I/2015 tăng 17,9%; trong khi điện dùng cho sản xuất quý I/2014 là 13,6%.

Bên cạnh tính chỉ tiêu GDP theo phương pháp sản xuất, chúng tôi còn tính theo phương pháp sử dụng, tức là tính theo tích lũy, tiêu dùng và xuất nhập khẩu. Theo đó, tổng mức bán lẻ hàng hóa và tiêu dùng dịch vụ tăng ở mức 10%. Nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng ở mức 9,2%. Chúng tôi tính tiêu dùng cuối cùng của quý I năm nay tăng 8,67%, cao nhất so với quý I giai đoạn 2011-2014.

Đó là những khu vực, điểm tăng trưởng của nền kinh tế.

Câu hỏi thứ hai là công bố sớm như vậy có ảnh hưởng gì không? Như nhiều lần chúng tôi đã nói, số liệu thống kê có 3 con số: Số ước tính, sơ bộ và chính thức.

Để phục vụ cho quản lý điều hành nền kinh tế của Chính phủ, các bộ, ngành, chúng tôi thường tính và công bố chỉ số GDP vào ngày 26 của tháng cuối quý. Đó là con số ước tính. Sau đó, đến tháng 6, chúng tôi tính GDP của quý II và rà soát lại GDP của quý I. GDP chúng tôi rà soát lại và công bố vào tháng 6 là con số sơ bộ.

Chúng ta nhớ lại năm 2014, vào thời điểm tháng 3, chúng tôi tính và công bố chỉ số GDP là 4,96%. Sau đó tháng 6, khi đã kết thúc quý I và có đầy đủ thông tin hơn, chúng tôi rà soát lại và điều chỉnh chỉ số GDP là 5,06%.

Như vậy, việc tính toán sớm như vậy để phục vụ cho hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ. Do chưa kết thúc quý nên độ tính cậy có mức độ của nó. Khi đầy đủ thông tin thì chúng tôi sẽ điều chỉnh lại. Số liệu tính toán sớm như đã nói để nhằm phục vụ công tác điều hành, nhưng vẫn phản ánh được bức tranh sát thực của nền kinh tế.

(Theo chinhphu.vn)

.
.
.