Thứ Sáu, 26/06/2015, 09:55 (GMT+7)
.

ĐBQH Huỳnh Văn Tính: Góp ý dự án Luật Tố tụng hành chính (sửa đổi)

Ngày 23-6, Quốc hội làm việc ở Hội trường để thảo luận về dự án Luật Tố tụng hành chính (sửa đổi). Đại biểu Huỳnh Văn Tính (Đoàn ĐBQH đơn vị tỉnh Tiền Giang) phát biểu góp ý một số nội dung như sau:

Thứ nhất, Điều 13 dự thảo luật quy định: Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Tại Khoản 3 của điều luật này quy định việc cá nhân, cơ quan, tổ chức nhận định, đánh giá về nội dung vụ án khi tòa án chưa tiến hành xét xử hoặc khi bản án, quyết định của tòa án chưa có hiệu lực pháp luật là hành vi bị cấm, nếu vi phạm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật. Về vấn đề này, đề nghị cần xem xét đến các trường hợp cụ thể như sau:

Một là, tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013 quy định công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp… Như vậy, quy định việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định nêu trên của điều luật có hạn chế quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí hay không? Thiết nghĩ, người dân có quyền nhận định, đánh giá về nội dung vụ án, về công tác giải quyết xét xử của tòa án kể cả trước, trong hoặc sau khi xét xử hoặc khi bản án, quyết định của tòa án chưa có hiệu lực pháp luật.

Hai là, việc giải quyết xét xử vụ án là quyền của tòa án, nếu tòa án giải quyết sai hoặc có những quyết định không đúng thì dư luận có quyền lên tiếng để bảo vệ công lý. Tòa án lắng nghe ý kiến đó để tự xem xét việc giải quyết, xét xử của mình, không thể hạn chế hay cấm đoán sự phản ánh của công luận, bởi trong thực tiễn đã có không ít vụ án được xem xét kháng nghị hoặc hủy án bởi sự phản ánh trung thực, khách quan của công luận. Vì vậy, đề nghị cần cân nhắc thận trọng và xem xét thấu đáo nội dung quy định này của luật.

Thứ hai, Điều 32 về những khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án.

Tại Điểm b, Khoản 1 của điều luật này quy định: Quyết định, hành vi của tòa án nhân dân trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng thì không được khiếu kiện là không hợp lý.

Bởi lẽ, hầu hết các chế tài xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng đều là hình thức xử phạt hành chính. Việc xử phạt hành chính đối với người có hành vi vi phạm và tòa án có thẩm quyền xử phạt đã được quy định trong Luật Xử lý vi phạm và tòa án có thẩm quyền xử phạt đã được quy định trong pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

Khi xử phạt các vi phạm hành chính liên quan đến hoạt động tố tụng hành chính hoặc các hoạt động tố tụng khác thì tòa án phải chấp hành đầy đủ quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, bảo đảm quyết định xử phạt hành chính là hợp pháp.

Khi tòa án đã ban hành quyết định xử lý hành chính thì người dân có quyền khiếu kiện nếu họ cho rằng quyết định đó không đúng, xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Pháp luật không được loại trừ quyền khởi kiện của người dân đối với quyết định hành chính của tòa án, vì như vậy là xâm hại đến quyền con người, quyền công dân mà Hiến pháp đã quy định. Do đó, đề nghị không quy định việc loại trừ quyền khiếu kiện đối với các quyết định hành chính của tòa án về việc xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng.

Thứ ba, Điều 48 quy định về những trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi.

Tại Khoản 2 quy định trường hợp có 2 người thân thích với nhau trong Hội đồng xét xử thì chỉ có 1 người phải từ chối hoặc bị thay đổi. Vậy thế nào là người thân thích? (khái niệm này còn được quy định ở các Điều 49, 50 dự thảo luật này). Do đó, để đảm bảo sự chặt chẽ trong quy định của luật, đề nghị bổ sung vào Điều 3 của luật nội dung giải thích từ ngữ về người thân thích.

Mặt khác, cũng cần cân nhắc việc từ chối tố tụng hoặc bị thay đổi khi tiến hành tố tụng đối với người thân thích với giám định viên, người phiên dịch, người bào chữa… Việc tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng là người thân thích của nhau cùng giải quyết 1 vụ án sẽ tạo ra sự nghi ngại về tính khách quan, công tâm. Đó cũng là điều nên cấm và luật cần có quy định cụ thể về vấn đề này.

Thứ tư, Điều 52 về quyết định việc thay đổi người tiến hành tố tụng.

Đoạn 2 của Khoản 4 điều luật này quy định có những điểm trùng với Khoản 3, đề nghị nên cân nhắc để thiết kế điều luật này rõ ràng, mạch lạc hơn; đồng thời cũng phải có quy định nhằm đảm bảo tính nguyên tắc trong việc thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch tại phiên tòa do Hội đồng xét xử quyết định.

Thứ năm, Điều 65 quy định về thủ tục từ chối giám định, phiên dịch hoặc đề nghị thay đổi người giám định, người phiên dịch. Điều luật này không có quy định về thời hạn cử hoặc chỉ định trưng cầu người khác thay đổi cho người bị thay đổi hoặc từ chối giám định, phiên dịch. Cần phải có quy định tương tự như quy định tại Khoản 3, Điều 52 về thời hạn cử người thay thế để đảm bảo thời hạn xét xử vụ án đúng theo luật định.

Thứ sáu, Điều 67 quy định về thẩm quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Khoản 1 quy định việc áp dụng thay đổi hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời trước khi mở phiên tòa do 1 thẩm phát xem xét quyết định. Đề nghị sửa lại như sau: Việc áp dụng thay đổi hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời trước khi mở phiên tòa do thẩm phán được phân công giải quyết vụ án xem xét quyết định nhằm đảm bảo tính thống nhất chung trong áp dụng pháp luật, vì không phải thẩm phán nào cũng có quyền thực hiện quyền này nếu họ không phải là người được phân công giải quyết vụ án.

Thứ bảy, Điều 74 quy định về thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Khoản 1, Khoản 2 điều luật này đều dùng thuật ngữ tòa án là không chính xác, bởi việc thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của thẩm phán. Ngoài ra, theo quy định tại Điều 76 của dự thảo luật thì Chánh án tòa án đang giải quyết vụ án có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, kiến nghị về quyết định áp dụng thay đổi, hủy bỏ hoặc không áp dụng thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời của thẩm phán.

Tại phiên tòa thì hội đồng xét xử thực hiện giải quyết khiếu nại, kiến nghị này. Như vậy, để đảm bảo chính xác và phù hợp với quy định của Điều 76, tôi đề nghị thay từ “tòa án” bằng “thẩm phán” tại các Khoản 1, Khoản 2, Điều 74.

ĐĂNG HIẾU (tổng hợp)

.
.
.