Thứ Tư, 09/03/2016, 09:40 (GMT+7)
.
Bà Nguyễn Thị Thập:

Tham gia lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Nam kỳ ở tỉnh Mỹ Tho

Sau các cuộc họp của Xứ ủy Nam kỳ (vào các tháng 7, 9 và 10-1940), Tỉnh ủy Mỹ Tho tổ chức 3 cuộc họp ngay vào cuối tháng đó, đều ở vùng Xoài Hột (xã Thạnh Phú, quận Châu Thành) để bàn kế hoạch chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.

Để tiến hành khởi nghĩa thuận lợi, Tỉnh ủy chỉ đạo lập mạng lưới giao liên để bảo đảm chỉ huy thông suốt và kịp thời. Trạm giao liên của Tỉnh ủy đặt tại cầu đúc Trung Lương (nay thuộc xã Trung An, TP. Mỹ Tho) chịu trách nhiệm liên lạc với Xứ ủy, Liên Tỉnh ủy, các Quận ủy và các cơ sở trực thuộc.

Đầu tháng 11-1940, Tỉnh ủy Mỹ Tho họp ở xã Thạnh Phú (Châu Thành) triển khai Nghị quyết tháng 10-1940 của Xứ ủy, kiểm điểm tình hình chuẩn bị và xây dựng kế hoạch khởi nghĩa; phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng cán bộ trong Tỉnh ủy và các Quận ủy.

Tỉnh ủy xác định đây là cuộc khởi nghĩa đồng loạt trên phạm vi toàn tỉnh, mục tiêu là giành chính quyền về tay nhân dân. Trước mắt tập trung lực lượng khởi nghĩa giành chính quyền theo từng khu vực, tạo nên thế mạnh áp đảo của nhân dân, đánh chiếm các cơ quan đầu não của địch trong thị xã, thị trấn giành quyền làm chủ về tay nhân dân; bắt, giáo dục, xử tội những tên ác ôn, tịch thu tài sản, ruộng đất của địa chủ phản động chia cho dân nghèo.

Để hoàn thành nhiệm vụ trong cuộc khởi nghĩa, Tỉnh ủy Mỹ Tho chủ trương thành lập Ủy ban khởi nghĩa ở các cấp và khi giành được chính quyền chuyển các Ủy ban khởi nghĩa sang làm nhiệm vụ của chính quyền cách mạng.

Tỉnh ủy phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng cán bộ chủ chốt của tỉnh và của quận: Ông Phan Văn Khỏe, Xứ ủy viên, Bí thư Tỉnh ủy Mỹ Tho chịu trách nhiệm truyền lệnh và phụ trách khởi nghĩa quận Cai Lậy. Ông Nguyễn Văn Trọng phụ trách thông tin liên lạc giữa Xứ ủy với Tỉnh ủy, trực tiếp truyền lệnh và phụ trách quận Châu Thành.

Bà Nguyễn Thị Thập phụ trách lực lượng vũ trang tập trung của tỉnh (đang ở khu căn cứ Ba U), phối hợp lực lượng khởi nghĩa tại chỗ giành chính quyền các xã Tam Hiệp, Long Định, Long An... và uy hiếp lộ số 4 (nay là Quốc lộ 1A)…

Sáng 22-11-1940, thực dân Pháp nhận được tin mật báo là có cuộc khởi nghĩa. Đối với ta, mệnh lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy đến Mỹ Tho lúc 22 giờ. Mệnh lệnh nêu rõ: 0 giờ ngày 23-11-1940 sẽ đồng loạt nổi dậy đánh chiếm các đồn, nhà việc, thị trấn, thị xã.

Đình Long Hưng (làng Long Hưng, quận Châu Thành) được Ban khởi nghĩa tỉnh Mỹ Tho chọn làm trụ sở. Tại đây, lần đầu tiên cờ đỏ sao vàng được treo trên ngọn cây bàng trước sân đình. Khẩu hiệu “Việt Nam dân chủ cộng hòa quốc” được treo tại mặt tiền ngôi đình.

Trong đêm 22 rạng ngày 23-11-1940, các xã trong tỉnh Mỹ Tho đồng loạt nổi dậy, nhắm vào đồn bót, công sở, cơ sở hạ tầng, đường xe lửa, bưu điện, cầu cống, cột điện… để triệt phá. Mỹ Tho sống trong không khí của một cuộc “tiến công trời”.

Kẻ thù mặc dù biết trước nhưng vẫn không sao chống đỡ. 74 xã (làng) của Mỹ Tho hừng hực trong không khí khởi nghĩa. Đặc biệt, hầu hết các tầng lớp trong xã hội đều tham gia. Không chỉ bần nông, trung nông, phú nông, thợ thủ công, tiểu chủ, mà cả trí thức cũng tham gia.

Khi khởi nghĩa nổ ra, với nhiệm vụ được phân công, bà Nguyễn Thị Thập cho liên lạc đến các xã xung quanh truyền lệnh khởi nghĩa và huy động nhân dân đồng loạt nổi dậy. Khu vực Tam Hiệp do bà Nguyễn Thị Thập chỉ huy có lực lượng tự vệ khá mạnh.

Sau khi tổ chức khởi nghĩa tại làng Thân Cửu Nghĩa, Long An, Ủy ban khởi nghĩa đưa lực lượng đến xóm Nhơn Huề làng Tam Hiệp phối hợp với lực lượng tại chỗ đánh trống mõ, đốt khí đá, trương khẩu hiệu, giương cao cờ đỏ sao vàng, cờ đỏ búa liềm kéo đến bao vây bót Chợ Bưng. Bọn tề các làng trên đều đầu hàng quân khởi nghĩa hoặc chạy trốn. Quyền làm chủ ở các làng: Thân Cửu Nghĩa, Tam Hiệp, Long An... đã thuộc về nhân dân.

Tiếp đó, lực lượng tự vệ do bà Nguyễn Thị Thập chỉ huy tiến ra Long Định để tiếp ứng lực lượng của ông Nguyễn Văn Tân, nhưng khi đến nơi thì trận chiến ở đây đã giải quyết xong, bọn địch rút về Cai Lậy.

Theo chỉ đạo của Tỉnh ủy, 2 cánh quân do ông Nguyễn Văn Tân và bà Nguyễn Thị Thập chỉ huy, một cánh rút về căn cứ Ba U cùng với các thương binh, có nhiệm vụ uy hiếp lộ số 4 và bảo vệ căn cứ; một cánh rút về đình Long Hưng để bảo vệ chính quyền cách mạng tỉnh Mỹ Tho.

Hình ảnh bà Nguyễn Thị Thập bụng mang dạ chửa gần ngày sinh nở, lấy khăn rằn nịt bụng chỉ huy nhân dân và lực lượng tự vệ xông vào chiếm đồn, đánh bót anh dũng, hiên ngang và oanh liệt vô cùng.

Cuộc khởi nghĩa đã giáng vào chính quyền cai trị của thực dân Pháp ở tỉnh Mỹ Tho những đòn chí tử. Tại đình Long Hưng, ngay trong ngày 23-11-1940, trước hơn 3.000 đồng bào đến dự, chính quyền cách mạng tỉnh Mỹ Tho ra mắt nhân dân.

Ông Phan Văn Khỏe, Bí thư Tỉnh ủy Mỹ Tho, Trưởng Ban khởi nghĩa được cử làm Chủ tịch, phụ trách chung; bà Nguyễn Thị Thập phụ trách Thường trực Ủy ban cách mạng; ông Nguyễn Văn Thường phụ trách quân sự…

Trong khởi nghĩa Nam kỳ, Mỹ Tho là một trung tâm và tiêu biểu ở Nam kỳ, nơi chính quyền cách mạng tỉnh tồn tại lâu nhất, nơi địch khủng bố ác liệt nhất. Cuộc khởi nghĩa tại Mỹ Tho là cuộc diễn tập toàn diện, để trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, Mỹ Tho là nơi giành chính quyền sớm nhất cả nước.

Cuộc khởi nghĩa ở Mỹ Tho dẫn đến sự ra đời của chính quyền cách mạng ở tỉnh và một số xã. Mặc dù chính quyền cách mạng chỉ tồn tại 49 ngày, nhưng với kết quả mà chính quyền cách mạng đem lại trong thực hiện quyền dân sinh dân chủ và thực hiện thiết chế dân chủ nhân dân đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng nhân dân Mỹ Tho về một chế độ dân chủ nhân dân thật sự.

Qua đó nhân dân Mỹ Tho càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Trong thành công của cuộc khởi nghĩa ở tỉnh Mỹ Tho có vai trò và công lao to lớn của bà Nguyễn Thị Thập - người đảng viên tích cực và hăng hái chỉ huy lực lượng vũ trang giành quyền làm chủ cho nhân dân.

Tinh thần chiến đấu quật cường của bà trong cuộc khởi nghĩa Nam kỳ luôn nhắc nhở chúng ta nêu cao tư tưởng tiến công cách mạng, ý chí kiên định và triệt để cách mạng của người cộng sản, luôn đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng và của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp vẻ vang của Đảng, của dân tộc.
 

Lược ghi tham luận của TS. LÊ VĂN TÝ

(Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy)
 

.
.
.