Thứ Bảy, 16/01/2021, 17:39 (GMT+7)
.

Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 91 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Báo Ấp Bắc trân trọng giới thiệu toàn văn Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 91 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930 - 3-2-2021) do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang biên soạn.

I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI LÀ BƯỚC NGOẶT TO LỚN TRONG LỊCH SỬ CÁCH MẠNG VIỆT NAM

1. Bối cảnh lịch sử ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam

Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến sâu sắc. Trên thế giới, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đế quốc gia tăng các hoạt động xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Bên trong các nước tư bản thì tăng cường bóc lột nhân dân lao động, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.

Năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác -Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, trở thành nguồn cổ vũ to lớn cho các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Trong nước, năm 1858, thực dân Pháp xâm lược và thi hành chính sách cai trị thực dân ở Việt Nam, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”. Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.

Thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách bóc lột tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét tài nguyên, cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề và tiến hành chính sách ngu dân. Các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội Việt Nam đều mang thân phận người dân mất nước và đều bị thực dân áp bức, bóc lột, chèn ép nên đều căm phẫn thực dân Pháp. Do đó, mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam lúc này là mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến; mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.

Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa và các phong trào đấu tranh của nhân dân ta diễn ra liên tục và mạnh mẽ như phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Bái, phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… nhưng đều bị thất bại. Xã hội Việt Nam rơi vào khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước. 

2. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước và chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

- Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới.

- Trải qua quá trình bôn ba đến nhiều nước, Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu nhiều cuộc cách mạng, nghiên cứu nhiều lý thuyết cách mạng trên thế giới để tìm đường cứu nước cho nhân dân ta, dân tộc ta. Đến tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin đăng trên báo Nhân đạo và cũng chính từ đây đã giải đáp cho Người con đường đấu tranh giành độc lập tự do thực sự cho dân tộc, cho đồng bào mình, Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất chính là chủ nghĩa LêNin”.

- Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp với tư cách đại biểu Đông Dương, đã bỏ phiếu tán thành thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam.

- Từ năm 1921-1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp, nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Người tập trung chuẩn bị về tổ chức và cán bộ, lập ra Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên (1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu, Trung Quốc, đồng thời gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc).

Như vậy, từ bối cảnh quốc tế, trong nước; việc tìm ra con đường cứu nước cho nhân dân ta, dân tộc ta, tìm ra lý luận cách mạng Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc và công tác chuẩn bị về tổ chức, cán bộ mà từ cuối năm 1929, đầu năm 1930, những điều kiện cho sự ra đời của một Đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.

3. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

- Đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, từ tháng 6/1929 đến tháng 1/1930 ở Việt Nam lần lượt xuất hiện 3 tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn. Tuy nhiên ở một nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ chức, khó thống nhất về tư tưởng và hành động. Yêu cầu thực tiễn cách mạng Việt Nam cần phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

- Từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và sách lược vắn tắt của Đảng phản ánh nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như Đại hội thành lập Đảng.

- Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tóm lại, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.  Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.

4. Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam và qua 91 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, toàn dân tộc Việt Nam, lấy lý luận chủ nghĩa Mac-LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động đã lãnh đạo nhân dân ta, dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

II. NHỮNG MỐC SON CHÓI LỌI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRÊN CHẶNG ĐƯỜNG 91 NĂM VINH QUANG CỦA ĐẢNG

- Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945): Sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền với 3 cao trào cách mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đó là: Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là phong trào XôViết - Nghệ Tĩnh; Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939); Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945).

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã phá tan sự thống trị của thực dân gần một trăm năm và lật đổ chế độ phong kiến đè nặng lên nhân dân ta mấy mươi thế kỉ, mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.

 Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á.

Về ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và Nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.

- Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước  (1945 - 1975)

Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945-1954)

- Trong những năm 1945 - 1946, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân, bầu cử Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (6/1/1946); xây dựng và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên (9/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của nhân dân, chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả nước; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng tháng Tám; đồng thời thực hành sách lược khôn khéo, đưa cách mạng vượt qua những thử thách hiểm nghèo. Đảng đã chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên phạm vi cả nước.

- Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Bằng đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp giành thắng lợi mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta.

- Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954 - 1975)

- Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Đảng lãnh đạo nhân dân ta bắt tay vào khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng, khôi phục kinh tế - văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội.

- Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ, thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân bằng tầm cao khoa học và nghệ thuật. Bằng đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần yêu nước, đấu tranh anh dũng kiên cường, bất khuất của nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

- Thời kỳ tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1975 đến nay

- Sau chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn, Đảng đã lãnh đạo nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh chống xâm lược biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; đồng thời tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ta.

- Qua hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta vượt qua khủng hoảng kinh tế đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Văn hóa - xã hội có bước phát triển, công tác xóa đói giảm nghèo đạt được những thành tựu quan trọng, sớm đạt được nhiều chỉ tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, được quốc tế đánh giá cao. Diện mạo đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi.

Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, Việt Nam đã có quan hệ với 189 quốc gia và vùng lãnh thổ. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Ðại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh.

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang đạt được một số kết quả tích cực. Số lượng đảng viên không ngừng gia tăng.

Từ Đại hội lần thứ I (1935) Đảng ta có khoảng 500 đảng viên đến Đại hội lần thứ XII (2016) Đảng ta có hơn 4,5 triệu đảng viên. Đa số cán bộ, đảng viên và Nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước. Nhiều đảng viên đã để lại nhiều tấm gương tốt thể hiện tinh thần tiên phong và tính gương mẫu.

- Những bài học kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam

Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 91 năm qua, Đảng ta đã tích luỹ và đúc rút được nhiều bài học kinh nghiệm lớn:

Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.

Hai làsự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.

Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công.

Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.

Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên.

III. NHỮNG DẤU MỐC QUAN TRỌNG TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN TỈNH TIỀN GIANG  

1. Đảng bộ Mỹ Tho, Gò Công lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân (1930-1945); kháng chiến chống quân Pháp và Mỹ xâm lược (1945-1975)

Qua 15 năm (1930-1945), dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công, phong trào cách mạng ở tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công diễn ra liên tục. Nổi bật nhất, ngày 23-11-1940, cuộc khởi nghĩa chống Pháp giành quyền tự do, dân chủ diễn ra khắp tỉnh Mỹ Tho.

Lá cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên treo trên ngọn cây bàng ở đình Long Hưng. Trước cổng đình cũng lần đầu tiên xuất hiện Quốc hiệu: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà quốc. Chính quyền cách mạng tỉnh Mỹ Tho lần đầu tiên ra đời và thực hiện thiết chế nền dân chủ cộng hoà. Mỹ Tho, cũng là nơi Tòa án Nhân dân cách mạng cấp tỉnh thành lập lần đầu tiên của cả nước. Thành tựu cuộc khởi nghĩa 1940 ở Mỹ Tho để lại cho dân tộc ta là vô giá!

Ngày 18-8-1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Mỹ Tho, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Mỹ Tho thắng lợi và ngày 22-8-1945, cuộc khởi nghĩa ở Gò Công dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Gò Công thành công.

Đảng bộ tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công lãnh đạo nhân dân và các lực lượng cách mạng tham gia xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng nhân dân, tổ chức bầu cử Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, xây dựng chế độ mới - chế độ dân chủ nhân dân, tổ chức toàn dân chuẩn bị mọi mặt tham gia kháng chiến chống quân Pháp xâm lược lần thứ hai.

Đảng bộ tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công đề ra chủ trương “trang trải ruộng đất”. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng bộ tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công, tạo tiền đề xây dựng cơ sở xã hội vững chắc ở nông thôn để nhân dân ta kháng chiến, góp phần vào thắng lợi chung cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược.

Trong kháng chiến chống Mỹ, nhân dân tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công, thành phố Mỹ Tho dưới sự lãnh đạo của Đảng đã liên tục tiến công, từ đấu tranh chính trị tiến lên chiến tranh cách mạng, kết hợp tiến công và nổi dậy, hoàn thành mọi nhiệm vụ chính trị của cách mạng nên giành thắng lợi vẻ vang. Với khí thế cách mạng tiến công, quân và dân tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công, thành phố Mỹ Tho tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn quê hương ngày 30-4-1975. 

2. Đảng bộ tỉnh Tiền Giang lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị xây dựng Đảng, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh từ năm 1975 - 2020

Ngày 01 tháng 3 năm 1976, ba đơn vị tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công, thành phố Mỹ Tho sáp nhập thành tỉnh Tiền Giang.

Ngay từ khi ra đời, Đảng bộ Tiền Giang nắm bắt đúng xu thế phát triển của thời đại, gắn phong trào cách mạng ở địa phương với phong trào cách mạng cả nước. Trên con đường phát triển của cách mạng, Đảng bộ Tiền Giang không ngừng đề ra những quyết sách phù hợp, đáp ứng yêu cầu lịch sử, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa tỉnh Tiền Giang tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn. Đến nay, Đảng bộ Tiền Giang có 15 đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy, 740 tổ chức cơ sở đảng; trong đó, có 294 đảng bộ cơ sở, 446 chi bộ cơ sở và hiện có 49.865 đảng viên.

Phát huy truyền thống cách mạng của quê hương Tiền Giang anh hùng, trong nhiệm kỳ 2015 -2020 thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ X và các nghị quyết chuyên đề của Trung ương, của Tỉnh ủy; bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, tỉnh cũng gặp không ít khó khăn, ngay từ đầu nhiệm kỳ (năm 2016) hạn, mặn; những vấn đề phát sinh mới về an ninh, trật tự đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất, sinh hoạt của người dân. Đầu năm 2020, tỉnh lại bị tác động kép của hạn, mặn đến sớm, kéo dài và đại dịch Covid-19; nhưng với sự đoàn kết, quyết tâm, trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của các cấp ủy, chính quyền cùng với sự giám sát chặt chẽ của Hội đồng nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể; sự nỗ lực phấn đấu của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương, doanh nghiệp, đặc biệt là sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và sự đồng tình, ủng hộ của các đồng chí lão thành cách mạng, của nhân dân nên hầu hết các chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong nhiệm kỳ đều đạt và vượt so với Nghị quyết; quốc phòng, an ninh trật tự được giữ vững; công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị thường xuyên được chú trọng, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động ngày càng nâng cao, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.

Nhiệm kỳ qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh bình quân đạt 7,3%/năm; GRDP bình quân đầu người năm 2020 đạt 58,6 triệu đồng. Xây dựng 119/143 xã, chiếm 83,2%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra (là tỉnh có số xã đạt chuẩn nông thôn mới cao trong vùng đồng bằng sông Cửu Long); có 08 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; có 2 huyện nông thôn mới (huyện Gò Công Đông, huyện Chợ Gạo) và 3/3 đô thị hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới (thành phố Mỹ Tho; thị xã Gò Công; thị xã Cai Lậy). Cơ sở hạ tầng được tập trung đầu tư phục vụ cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của các vùng trong tỉnh và phục vụ đời sống dân sinh tỉnh nhà.

Các lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực; tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững; an sinh xã hội đảm bảo, tỷ lệ hộ nghèo được kéo giảm xuống còn 1,87%; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày một nâng cao; các chế độ, chính sách đối với người có công, hộ nghèo, gia đình khó khăn được triển khai thực hiện kịp thời, theo hướng hỗ trợ phát triển bền vững.

Tình hình tư tưởng và tâm trạng của nhân dân cơ bản ổn định, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng. Các tổ chức trong hệ thống chính trị được củng cố, kiện toàn, đẩy mạnh việc sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động gắn với tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Công tác xây dựng đảng, xây dựng chính quyền luôn được quan tâm củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, điều hành và tổ chức thực hiện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; vai trò, phương thức lãnh đạo của nhiều cấp ủy được phát huy tốt. Việc triển khai, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; về học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; các quy định về nêu gương, về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền,... thường xuyên được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, đã tạo sự chuyển biến rõ nét trong tư tưởng, đạo đức, lối sống, tinh thần trách nhiệm và tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, góp phần tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng, xây dựng tổ chức đảng vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị.

Tự hào với thành tựu đạt được trong thời gian qua, Đảng bộ Tiền Giang tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, ra sức xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế bền vững, phấn đấu đến năm 2025, Tiền Giang trở thành tỉnh phát triển trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

 

.
.
.