.

Sau Hiệp định Paris, quân và dân tỉnh Tiền Giang đánh bại các cuộc hành quân lấn chiếm của Mỹ - ngụy, giữ vững vùng giải phóng

Cập nhật: 21:18, 27/01/2023 (GMT+7)

(ABO) Với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, Mỹ - ngụy không thực hiện Hiệp định Paris, chúng liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân lấn chiếm các vùng giải phóng, đưa sĩ quan về xã, thành lập các phân chi khu, cục cảnh sát, phát triển “thiên nga”, “phượng hoàng” để khống chế, kìm kẹp nhân dân[1].

Ngay ngày 28-1, địch xua quân phản kích, giành giựt quyết liệt với ta ở vùng hai bên lộ 4, các lộ sườn ven thành phố Mỹ Tho[2]. Đồng thời, mở rộng vùng kiểm soát và triển khai kế hoạch “hậu chiến” ở xung quanh thành phố Mỹ Tho, thị xã Gò Công, ven lộ 4 và các thị trấn. Ở vùng địch kiểm soát, chúng tổ chức mạng lưới tình báo, gián điệp hoạt động ngụy trang với vỏ bọc bên ngoài của tổ chức “thông tin đại chúng” để theo dõi và nắm dân. Địch vừa lấn chiếm, vừa bắt nhân dân phải treo cờ ba que, vẽ cờ lên mái nhà… để chứng tỏ rằng đây là nơi chúng kiểm soát. Thời gian này, địch tập trung nhiều phương tiện thông tin, tung tin, tuyên truyền xuyên tạc Hiệp định Paris, vu cáo Chính phủ cách mạng vi phạm Hiệp định… nhằm che đậy hành động phá hoại Hiệp định của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.

Ở vùng giải phóng, địch sử dụng pháo, bom na-pan bắn phá ác liệt. Mỗi đợt xua quân càn quét, chúng kết hợp xe M.113 càn phá ruộng lúa, vườn tược, hoa màu và cướp bóc tài sản của nhân dân, như ở các xã mảng 4: Mỹ Thành Bắc, huyện Cai Lậy Bắc; vùng Hậu Mỹ Bắc, huyện Cái Bè; vùng Thạnh Phú, Long Hưng, huyện Châu Thành Nam. Ngoài ra, địch còn ngăn chặn quần chúng về vùng giải phóng sản xuất nhằm ngăn sự tiếp tế của quần chúng cho lực lượng cách mạng.

Quang cảnh của buổi Lễ ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, ngày 27-1-1973.
Quang cảnh của buổi Lễ ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, ngày 27-1-1973.

Đảng bộ Mỹ Tho, Gò Công, thành phố Mỹ Tho quán triệt sâu sắc việc ký Hiệp định Paris. Đây là thắng lợi to lớn của quá trình đấu tranh vì độc lập cho dân tộc mà Đảng, Bác Hồ đề ra. Thắng lợi đó đánh dấu bước ngoặt trong cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta, tạo nên khí thế cách mạng sôi nổi trong các tầng lớp nhân dân và các lực lượng cách mạng, là động lực để phát triển lực lượng cách mạng về mọi mặt. Và ngay thời điểm lịch sử ấy, lực lượng vũ trang trong tỉnh cũng đang chiếm giữ những địa bàn quan trọng, lực lượng chính trị đang phát triển rộng khắp, Đảng bộ và chính quyền cách mạng ngày càng có uy tín trong nhân dân.

Quân dân Mỹ Tho, Gò Công giành quyền chủ động trên toàn chiến trường. Lực lượng vũ trang, chính trị đứng chân và làm chủ hầu hết các vùng nông thôn và các vùng ven lộ 4, thành phố Mỹ Tho, thị xã, thị trấn. Lực lượng quân - dân chính Đảng phát triển mạnh. Đầu năm 1973, tỉnh Mỹ Tho và tỉnh Gò Công có hơn 7.000 đảng viên và 30.000 người trong các tổ chức cách mạng.

Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Trung ương Cục miền Nam, của Khu ủy Khu 8, Đảng bộ Mỹ Tho, Gò Công chỉ đạo các cấp, các ngành, đoàn thể kiên quyết chống lại hành động phá hoại Hiệp định của địch, đẩy mạnh sản xuất, nâng cao đời sống văn hóa, xã hội cho nhân dân.

Ở Mỹ Tho, địch tiến hành đồng loạt các biện pháp để thực hiện kế hoạch lấn đất, giành dân, cấm đồng bào ta tụ tập từ 5 đến 7 người trở lên. Chúng ra lệnh giới nghiêm trong binh lính, cấm trại 100% và ra 12 điều luật phát xít để ngăn chặn đào ngũ của binh sĩ, sĩ quan; đồng thời, đóng xen kẽ thêm đồn bót ở khu đông dân nhằm khống chế mọi hoạt động tiếp tế của quần chúng cho lực lượng cách mạng.

Điểm tập trung đánh phá nhiều nhất của địch ở chiến trường Mỹ Tho thuộc các xã: Long Tiên, Nhị Quý, huyện Cai Lậy Nam; Tân Hội, Nhị Mỹ, huyện Cai Lậy Bắc; các xã ven thành phố Mỹ Tho và các xã Vĩnh Hựu, Thạnh Nhựt, Đồng Sơn thuộc huyện Hòa Đồng (huyện Gò Công Tây ngày nay) tỉnh Gò Công. Nhất là trong những ngày Tết Nguyên đán năm 1973, địch tập trung lực lượng Sư đoàn 7 và nhiều tiểu đoàn bảo an đánh vào tuyến rạch Long Điền thuộc xã Mỹ Long, các rạch Ba Rài, Ba Muồng của huyện Cai Lậy Nam; Hữu Đạo, Bàn Long, Dưỡng Điềm của huyện Châu Thành Nam nhằm ngăn chặn và dập tắt phong trào đấu tranh của quần chúng đòi trở về ruộng vườn cũ. Cuộc càn của địch kéo dài hơn 1 tháng, chúng bắn phá, gom dân, đốt một số nhà của quần chúng ở dọc lộ 20 huyện Cái Bè. Tính riêng các xã thuộc huyện Cai Lậy Bắc, địch dỡ 336 căn nhà của quần chúng và đưa 3.032 người tập trung trong khu gom dân của chúng.

Ở Gò Công, địch chiếm hầu hết các ấp giải phóng và một số lõm căn cứ của huyện Chợ Gạo. Chúng bắn pháo, gài mìn, lựu đạn, bao vây phong tỏa, đốn phá địa hình một số xã: Bình Phục Nhứt, Bình Ninh (huyện Chợ Gạo); Bình Phục Nhì, Thạnh Nhựt, Vĩnh Hựu, Đồng Sơn, Phú Thạnh Đông của Gò Công…

Thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Mỹ Tho, Gò Công, quân dân Mỹ Tho, Gò Công đồng loạt cắm hàng chục ngàn cờ Mặt trận dân tộc giải phóng trên 3/4 diện tích của Mỹ Tho và một số ấp của Gò Công. Ở thành phố Mỹ Tho, cờ Mặt trận dân tộc giải phóng cắm dọc theo sông Bảo Định, khu vục xung quanh chùa Vĩnh Tràng, tuyến lộ Nguyễn Huỳnh Đức. Quần chúng ở vùng nông thôn giải phóng, vùng tranh chấp được các đoàn thể huy động tổ chức nhiều cuộc mít tinh, biểu tình, hội họp để tuyên truyền và học tập nội dung Hiệp định Paris nhằm trang bị cho quần chúng kiến thức về pháp lý của Hiệp định để quần chúng có cơ sở đấu tranh buộc địch thi hành Hiệp định. Qua đó, quần chúng còn vận động những gia đình có người thân đi lính kêu gọi chồng, con, em họ trở về với gia đình. Phong trào quần chúng diễn ra sôi nổi và thu hút lượng người tham gia ngày càng đông, trong đó nhiều quần chúng ở vùng yếu cũng tìm mọi cách tham gia hưởng ứng phong trào.

Ở nhiều nơi khác như ở huyện Cái Bè; xã Tân Hội, huyện Cai Lậy Bắc; xã Long Hưng, Thạnh Phú, huyện Châu Thành Nam... ta lãnh đạo quần chúng đấu tranh trực diện, cản đầu xe M.113 không cho chúng càn trên lúa, không cho lính bộ binh cướp bóc lúa gạo của nhân dân, không nhổ cờ khi bị chúng thúc ép… Sau đó, kéo đến trụ sở của chỉ huy đấu tranh buộc chúng bồi thường thiệt hại cho nhân dân.

Cùng các cuộc đấu tranh, các huyện còn tổ chức nhiều cuộc họp mít tinh chào mừng thắng lợi Hiệp định Paris, mừng xuân hòa bình như cuộc mít tinh của hơn 5.000 quần chúng ở Đìa Đưng, xã Long Tiên, huyện Cai Lậy Nam mừng phái đoàn quân sự Khu vực 6 ra mắt và qua đó tố cáo tội ác của địch phá hoại Hiệp định. Cuộc mít tinh ở Đìa Đưng tổ chức thành công đã cổ vũ tinh thần đấu tranh của quần chúng và tạo thêm lòng tin của quần chúng đối với thắng lợi của cách mạng.

Trung tuần tháng 2-1973, các huyện trong tỉnh đồng loạt mở các đợt học tập chính trị, quân sự tại chỗ cho cán bộ, đảng viên, hội viên các đoàn thể các cấp, đồng thời phối hợp lực lượng ba mũi giáp công mở nhiều đợt tiến công đánh vào các căn cứ, các yếu khu và các đồn bót của địch. Qua nhiều đợt tấn công, ta mở rộng vùng giải phóng khu vực các xã: Hiệp Đức, Xuân Sơn, Cẩm Sơn, Tam Bình, Long Khánh của huyện Cai Lậy Nam; giải phóng xã Bàn Long của huyện Châu Thành Nam; mở lõm căn cứ ở xã Vĩnh Kim; giải phóng được hàng chục ngàn dân.

Ở khu vực sông Ba Rài, huyện Cai Lậy Nam, được sự hỗ trợ của Tiểu đoàn 2009B, đại đội đặc công, đại đội trinh sát của Tỉnh đội Mỹ Tho phối hợp du kích và nhân dân xây dựng xã, ấp chiến đấu theo từng khu vực để bảo vệ căn cứ, đồng thời đánh trả các mũi phản kích của địch[3]. Rút kinh nghiệm phong trào đấu tranh vũ trang kết hợp 3 mũi giáp công ở một số nơi, Tỉnh ủy đã chỉ đạo nhân rộng ra toàn tỉnh về phương châm, phương thức đánh địch trong hình thái chiến tranh mới, nhằm giữ vững vùng giải phóng.

Lúc này, Khu ủy và Quân Khu 8 đánh giá tình hình: “Tuy có Hiệp định chấm dứt chiến tranh ở miền Nam nhưng nhiều nơi còn ác liệt hơn trước khi có Hiệp định”. “Ở chiến trường, sự đối phó về quân sự của ta có nơi, có chỗ chưa thật kiên quyết đã làm xuất hiện trong một bộ phận quần chúng nhân dân và cán bộ, đảng viên tâm lý bi quan, không tin vào hiệu lực của Hiệp định”. Trên cơ sở đó, Khu ủy, Quân khu ủy tổ chức cuộc họp với Tỉnh ủy, Tỉnh đội Mỹ Tho để đánh giá tương quan lực lượng giữa ta và địch trong vùng trọng điểm Mỹ Tho, đồng thời uốn nắn những tư tưởng ỷ lại và động viên toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân phải kiên quyết đánh tiêu diệt địch càn quét, lấn chiếm.

Đêm ngày 2-3-1973, tỉnh Mỹ Tho đã cùng toàn khu bước vào cao điểm đánh địch lấn chiếm, giữ và mở rộng vùng giải phóng. Trong thời gian này, Tỉnh ủy dời căn cứ về xã Bình Trưng, huyện Châu Thành Nam để bảo đảm an toàn và thuận lợi trong việc lãnh, chỉ đạo chiến dịch. Tỉnh ủy chỉ đạo: Rút kinh nghiệm khu vực sông Ba Rài, các địa phương đẩy mạnh hơn nữa phong trào rào xã, ấp chiến đấu để tạo thế liên hoàn theo từng khu vực; kiên quyết thực hiện khẩu hiệu “3 bám”: Dân bám đất, Đảng bám dân, du kích, bộ đội bám địch nhằm tạo điều kiện cho dân đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống. Xây dựng lực lượng, đẩy mạnh phong trào chiến tranh nhân dân khắp 3 vùng, đặc biệt dùng lực lượng ba thứ quân chống địch càn quét, lấn chiếm, chặn viện và hỗ trợ cho 3 mũi giáp công tại chỗ bao vây đồn bót, mở rộng vùng giải phóng.

Thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy, quân dân Mỹ Tho, Gò Công phối hợp chặt chẽ các lực lượng, các huyện tổ chức nhân dân xây dựng thành phong trào trồng cây gây địa hình, rào xã, ấp chiến đấu, tạo thành thế liên hoàn theo từng khu vực. Các huyện tổ chức lực lượng thường trực gồm từ 30 đến 40 quần chúng hợp pháp, sẵn sàng đấu tranh trực diện với địch để bảo vệ tài sản, chống địch cướp bóc, chống xe M.113 càn phá lúa; đồng thời, xây dựng tổ du kích địa phương từ 5 đến 7 người, trang bị súng bắn tỉa nhằm ngăn chặn hoặc hạn chế các cuộc hành quân càn quét lấn chiếm của địch. Chỉ trong vòng 2 tháng, ta rào được hàng trăm ngàn mét hàng rào chiến đấu, cắm hàng ngàn bảng tử địa và tổ chức nhiều cuộc đấu tranh kìm, căng địch khắp nơi; mũi chính trị và binh vận phối hợp cùng mũi vũ trang tổ chức bao vây trên 300 đồn bốt. Phong trào đấu tranh phát triển mạnh ở mảng 3, mảng 4 huyện Cai Lậy Bắc, vùng 20-7, phần lớn các xã hai bên Nam - Bắc lộ 4, lộ 20 huyện Cái Bè làm cho lực lượng chủ lực địch phần lớn bị chôn chân tại chỗ, tạo điều kiện thuận lợi cho các nơi khác giành thắng lợi.

Sau Hiệp định Paris, nhờ quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng mà Đảng bộ tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công, thành phố Mỹ Tho lãnh đạo nhân dân chủ động tiến công địch, kiên quyết đánh bại các cuộc hành quân lấn chiếm, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng đến ngày giải phóng hoàn toàn quê hương vào mùa Xuân năm 1975.

LÊ VĂN TÝ

[1] Tính riêng trên địa bàn tỉnh Mỹ Tho, địch luôn duy trì lực lượng gồm 3 trung đoàn chủ lực (Trung đoàn Bộ binh 10, và Trung đoàn Bộ binh 12 thuộc Sư đoàn Bộ binh 7 ngụy, Trung đoàn Bộ binh 15 - Sư đoàn Bộ binh 9 ngụy), 3 Đại đội Trinh sát của 3 trung đoàn trên, 17 tiểu đoàn và liên đội bảo an (có 2 tiểu đoàn, 2 liên đội ngoài tỉnh tăng cường), trong đó có từ 4 đến 5 tiểu đoàn bảo an cơ động, từ 2 đến 3 Chi đoàn Thiết vận xa, 2 giang đoàn, đưa số lính toàn tỉnh Mỹ Tho, Gò Công và thành phố Mỹ Tho lên trên 48.000 tên (so với năm 1972 tăng hơn 6.000 tên).

[2] Chúng mở chiến dịch để cắm cờ lấn đất giành dân. Lực lượng huy động cho các cuộc hành quân càn quét bao gồm: 2 trung đoàn của Sư đoàn 9; Sư đoàn 7; 28 tiểu đoàn bảo an, cảnh sát; 2 đến 3 chi đoàn xe M.113; 2 đến 3 giang đoàn, có máy bay và pháo binh yểm trợ càn quét, lấn chiếm khắp nơi trong tỉnh. Điểm địch tập trung càn quét chủ yếu là các tuyến giao thông Nam - Bắc lộ 4, lộ Đông Hòa; các tuyến kinh Nguyễn Văn Tiếp A, Nguyễn Văn Tiếp B, sông Ba Rài, kinh Chợ Gạo…

[3] Tính từ ngày 28-1 đến ngày 2-2-1973, ta đánh 6 tiểu đoàn bảo an, 1 chi đoàn xe M.113, 9 tàu chở súng đạn và phương tiện đóng đồn bót. Ta diệt 170 tên địch, 7 xe M.113, 9 tàu, bẻ gãy âm mưu vừa lấn chiếm vừa chốt nhanh các đồn bót ở vùng này. Phát huy thắng lợi, ta đã bao vây, bức rút 12 đồn khác, làm chủ khu vực sông Ba Rài đến cuối tháng 4-1973. Cùng lúc, ở các xã: Mỹ Thành Bắc, Tân Hội, Nhị Mỹ, huyện Cai Lậy Bắc; vùng Gò Lũy, xã Dưỡng Điềm, huyện Châu Thành Bắc… đã dựa vào xã, ấp chiến đấu, dùng 3 mũi giáp công liên tục đánh phản kích, lấn chiếm, bao vây bức rút một số đồn bót, giữ vững được địa bàn đứng chân.





 

.
.
.