.

Đầu tư hạ tầng giao thông vùng đồng bằng sông Cửu Long

Cập nhật: 18:19, 01/11/2021 (GMT+7)
Khu vực cảng Cái Cui (Cần Thơ). Ảnh: LÊ AN
Khu vực cảng Cái Cui (Cần Thơ). Ảnh: LÊ AN

Dù đã hoàn thành nhiều công trình giao thông lớn, quan trọng, song hệ thống kết cấu hạ tầng của vùng đồng bằng sông Cửu Long vẫn tồn tại cần tiếp tục hoàn thiện để tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng.

Bộ Giao thông vận tải (GTVT) cho biết, đang tiếp tục tập trung nghiên cứu cơ chế đầu tư đặc thù để từng bước hoàn thiện hạ tầng giao thông, thúc đẩy phát triển kinh tế trong vùng.

Diện mạo mới về hạ tầng

Theo đánh giá của Viện trưởng Chiến lược và phát triển GTVT Lê Đỗ Mười, thời gian qua, một số tuyến quốc lộ trong vùng đồng bằng sông Cửu Long bị các hệ thống sông lớn chia cắt đã được xây dựng cầu vượt sông; hình thành các đường cao tốc, quốc lộ trục dọc và trục ngang phân bổ trên toàn vùng. Đến năm 2020, hệ thống quốc lộ trong vùng có tổng chiều dài gần 2.700 km, tăng 52% so năm 2002.

Về hàng không, đã hoàn thành đầu tư, nâng cấp các cảng hàng không trong khu vực bao gồm Cần Thơ, Phú Quốc, Cà Mau, Rạch Giá với tổng công suất mỗi năm 7,45 triệu hành khách và 12 nghìn tấn hàng hóa. Đồng thời, quy hoạch một số sân bay trong khu vực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, mở các đường bay trong nước và quốc tế đến Cần Thơ và Phú Quốc.

Giai đoạn vừa qua, nhiều công trình trọng điểm về đường thủy nội địa đã được đầu tư đưa vào khai thác như: Kênh Chợ Gạo (giai đoạn 1), âu Rạch Chanh cũng như các công trình thuộc dự án phát triển kết cấu hạ tầng trong vùng (dự án WB5) đã góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động vận tải thủy trong vùng. Tổng chiều dài mạng lưới đường thủy nội địa toàn vùng đạt hơn 6.100 km. Về hàng hải, đã phát triển được hệ thống 12 cảng biển với 37 bến, tổng chiều dài 7.642 m,

23 bến phao và 16 khu neo đậu chuyển tải, khu tránh, trú bão. Nhiều cảng bến quy mô lớn, trọng điểm đã được đầu tư xây mới trong 20 năm qua, điển hình như: Bến cảng Cái Cui - Cần Thơ, bến tổng hợp Vinalines Hậu Giang, bến Trà Cú - Trà Vinh, đáp ứng cho tàu trọng tải đến 20 nghìn DWT; bến Mỹ Thới - An Giang đáp ứng cho tàu trọng tải đến 10 nghìn DWT,...

Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp, địa hình chia cắt, địa chất phức tạp, suất đầu tư các công trình giao thông của vùng rất lớn nên hệ thống hạ tầng vẫn còn hạn chế, tạo thành những điểm nghẽn ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Trong đó, tốc độ đầu tư, xây dựng hệ thống đường bộ cao tốc còn chậm, chưa đạt tiến độ theo Nghị quyết số 21 đề ra; mạng lưới quốc lộ chưa đáp ứng yêu cầu vận tải, nhiều tuyến có tiêu chuẩn thấp, thường xuyên xảy ra ùn tắc, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn giao thông.

Cùng với đó, hệ thống hạ tầng kết nối, hạ tầng sau cảng biển, hạ tầng phục vụ logistics còn thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu vận tải biển của hàng hóa, chưa hình thành các trung tâm logistics quy mô lớn trong vùng cũng như thiếu cảng biển có thể tiếp nhận tàu biển trọng tải lớn (từ 50 nghìn DWT trở lên),...

Nút cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận nối với cao tốc TP Hồ Chí Minh - Trung Lương tại huyện Châu Thành, Tiền Giang. Ảnh: QUỲNH TRẦN
Nút cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận nối với cao tốc TP Hồ Chí Minh - Trung Lương tại huyện Châu Thành, Tiền Giang. Ảnh: QUỲNH TRẦN

Tạo cơ chế đặc thù

Bộ GTVT đưa ra mục tiêu đến năm 2030 sẽ đầu tư năm đoạn cao tốc bắc - nam có tổng chiều dài 190 km; đầu tư tuyến Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng dài 191 km; Hà Tiên - Rạch Giá 100 km; An Hữu - Cao Lãnh 30 km; hệ thống đường bộ ven biển (qua 7 tỉnh trong vùng tổng chiều dài 788 km); tuyến đường sắt TP Hồ Chí Minh - Cần Thơ dài khoảng 174 km; phát triển bốn hành lang vận tải thủy nội địa, 20 tuyến vận tải thủy nội địa chính với tổng chiều dài 2.570 km, 13 cụm cảng hàng hóa; đầu tư các cảng biển tiếp nhận tàu trọng tải lớn; nâng công suất các sân bay,...

Thống nhất về mục tiêu đầu tư của Bộ GTVT, lãnh đạo các địa phương, đại diện một số bộ, ngành đều cho rằng, cần tập trung cho phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhất là hạ tầng giao thông để tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, đẩy mạnh tốc độ xây dựng đường cao tốc, phát triển vận tải thủy vốn là đặc trưng và thế mạnh của vùng. Cùng với đó, ưu tiên về logistics để giảm chi phí, tăng sức cạnh tranh, đưa kinh tế - xã hội toàn vùng phát triển bền vững.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp, Trần Trí Quang đề xuất, Bộ GTVT đánh giá và tính toán đầu tư hạ tầng giao thông có tính kết nối liên vùng ở khu vực nhằm giảm chi phí logistics; trong kế hoạch trung hạn tập trung vào cao tốc đông - tây và cao tốc bắc - nam xuống tới Cà Mau; đầu tư đường thủy nội địa quốc gia, cảng biển và cả đường sắt.

Đồng tình quan điểm này, Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang, Trần Anh Thư cũng cho rằng, một trong những lý do nhà đầu tư chưa mặn mà đầu tư vào khu vực đồng bằng sông Cửu Long chính vì yếu kém về hạ tầng và logistics cho nên thời gian tới cần tháo gỡ về cơ chế, huy động nguồn lực về đầu tư theo phương thức đối tác công - tư (PPP); xây dựng cơ chế, phân cấp nguồn lực đầu tư của Trung ương và địa phương.

Theo Bộ trưởng GTVT Nguyễn Văn Thể, vùng đồng bằng sông Cửu Long có gần 20 triệu người dân sinh sống, được thiên nhiên ưu đãi, rất phù hợp để phát triển nông nghiệp nhưng tốc độ phát triển không đạt kỳ vọng. Vì vậy, Nghị quyết số 21 được Bộ Chính trị ban hành kịp thời và được triển khai đồng bộ cho cả 13 địa phương trong vùng, trong đó ngành GTVT tham mưu để hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế vùng tốt hơn.

Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể yêu cầu các đơn vị liên quan của bộ rà soát các dự án trọng điểm được nêu trong Nghị quyết số 21 và Kết luận số 29, nếu chưa triển khai thì ưu tiên đầu tư trong thời gian tới, danh mục đầu tư 2021 - 2025 đã ban hành thì nhất quyết phải đầu tư. Bộ GTVT cũng đề xuất giải pháp đột xuất như phát hành trái phiếu Chính phủ sử dụng hiệu quả để đầu tư, có cơ chế đặc thù, đa dạng hóa các giải pháp để xóa điểm nghẽn hạ tầng giao thông.

“Bộ GTVT mong muốn vùng đồng bằng sông Cửu Long phát triển, bảo đảm an ninh - quốc phòng cho nên việc tổ chức thực hiện phải hết sức cụ thể đối với từng bộ, ngành để tập trung kế hoạch xây dựng công trình cầu đường; các giải pháp huy động vốn; cơ chế rút ngắn thời gian chuẩn bị đầu tư. Việc xây dựng các tuyến cao tốc ở khu vực sẽ do các tỉnh thực hiện từ khâu khảo sát địa hình, chọn tư vấn thiết kế, thi công... cho tới hoàn thiện công trình. Vì vậy, các địa phương cần có phương án chuẩn bị sẵn sàng, chủ động thực hiện dự án, thay vì trông chờ vào Trung ương và ngành giao thông như hiện nay”, Bộ trưởng GTVT Nguyễn Văn Thể nhấn mạnh.

(Theo nhandan.vn)

.
.
.