Thứ Tư, 08/07/2020, 09:55 (GMT+7)
.

Điều chỉnh mức sinh phù hợp đến năm 2030: Triển vọng và thách thức

 (ABO) Lúc 6 giờ 35 phút ngày 11-7-1987, cậu bé người Nam Tư tên là Matej Gašpar ra đời tại thành phố Zagreb, nay là Thủ đô của Croatia, là công dân thứ 5 tỷ của hành tinh này.

Đến tháng 11-1989, Diễn đàn Dân số thế giới đã quyết định lấy ngày sinh của Matej Gašpar, ngày 11-7 làm "Ngày Dân số thế giới" nhằm nhắc nhở các quốc gia và mỗi người sống trên trái đất về nguy cơ dân số tǎng quá nhanh và những hậu quả của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội cũng như môi trường.

Tư vấn sức khỏe tiền hôn nhân tại một trạm y tế thuộc huyện Tân Phú Đông
Tư vấn sức khỏe tiền hôn nhân tại một trạm y tế thuộc huyện Tân Phú Đông.

Kỷ niệm Ngày Dân số thế giới hằng năm là dịp để mỗi quốc gia và toàn thể nhân loại nhìn lại việc kiểm soát tốc độ gia tăng dân số, từ đó tiếp tục đề xuất các chính sách, giải pháp hữu hiệu để hoàn thành các mục tiêu về dân số và phát triển trong chiến lược phát triển chung kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và của toàn nhân loại. Nhân Ngày Dân số thế giới năm 2020, chúng ta hãy nói về điều chỉnh mức sinh hợp lý đến năm 2030 của nước ta.

Chênh lệch mức sinh giữa các vùng

Trong những năm qua, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình đã được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt với rất nhiều chủ trương, chính sách cũng như các văn bản định hướng, chỉ đạo thực hiện. Tuy nhiên, hiện nay nước ta đang có xu hướng biến động và có sự khác biệt lớn giữa các vùng miền, khu vực về mức sinh, đòi hỏi phải có điều chỉnh, hướng dẫn cụ thể, kịp thời theo đặc thù từng địa phương để bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước từ công tác dân số.

Theo kết quả cuộc Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019, hiện nay, dân số nước ta là 96,2 triệu người, đứng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á và thứ 15 trên thế giới. Sau 10 năm, quy mô dân số Việt Nam tăng thêm 10,4 triệu người. Tỷ lệ tăng dân số bình quân giai đoạn 2009 - 2019 là 1,14%/năm. Việt Nam vẫn duy trì mức sinh ổn định trong hơn một thập kỷ qua, xu hướng sinh hai con ở Việt Nam là phổ biến.

Bên cạnh đó, chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt, tuổi thọ trung bình đạt 73,6 tuổi, cao hơn nhiều nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người; tình trạng suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em giảm mạnh; tầm vóc, thể lực người Việt Nam từng bước được cải thiện.

Thế nhưng, hiện tại, công tác dân số cũng đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Chẳng hạn, mức sinh giữa các vùng có chênh lệch khá lớn. Xu thế mức sinh giảm xuống quá thấp đã xuất hiện ở nhiều khu vực. Mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh, đã ở mức nghiêm trọng. Lợi thế dân số vàng chưa được tận dụng tốt. Già hóa dân số diễn ra với tốc độ quá nhanh, song các giải pháp thích ứng chưa được triển khai. Chất lượng dân số còn nhiều hạn chế… Một trong những thách thức là mức sinh giữa các vùng có chênh lệch khá lớn, một số khu vực mức sinh giảm xuống quá thấp là nguy cơ rất khó khắc phục.

Mức sinh phải phù hợp với từng vùng, miền.
Mức sinh phải phù hợp với từng vùng, miền.

Nghị quyết 21 ngày 25-10-2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới đã xác định 8 mục tiêu cụ thể đến năm 2030, trong đó mục tiêu thứ nhất là "Duy trì vững chắc mức sinh thay thế, quy mô dân số 104 triệu người".

Tuy rằng toàn quốc duy trì ổn định ở mức sinh thay thế (2,09 con), nhưng năm 2019 còn 4/6 vùng có mức sinh cao hơn mức sinh thay thế (Trung du và miền núi phía Bắc (2,43); Đồng bằng sông Hồng (3,35); Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung (2,32); Tây Nguyên (2,43). Hai vùng thấp hơn mức sinh thay thế (Đông Nam bộ (1,56), Đồng bằng sông Cửu Long (1,8).

Danh sách cụ thể phân loại mức sinh các tỉnh/thành phố:

(1) Vùng mức sinh thấp gồm 21 tỉnh, thành phố: TP. Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, Hậu Giang, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Khánh Hòa, Long An, Bạc Liêu, Tây Ninh, Sóc Trăng, Cà Mau, Đồng Nai, Bình Thuận, Tiền Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, An Giang, Bến Tre, Đà Nẵng, Quảng Ngãi và Kiên Giang.

(2) Vùng mức sinh cao gồm 33 tỉnh, thành phố: Hà Tĩnh, Lai Châu, Quảng Trị, Yên Bái, Điện Biên, Nghệ An, Tuyên Quang, Ninh Bình, Sơn La, Bắc Ninh, Nam Định, Hà Giang, Bắc Giang, Thanh Hóa, Phú Thọ, Kon Tum, Hòa Bình, Đắk Nông, Cao Bằng, Quảng Bình, Lào Cai, Vĩnh Phúc, Gia Lai, Thái Nguyên, Hưng Yên, Đắk Lắk, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Bình, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Hà Nam và Hải Dương.

(3) Vùng mức sinh thay thế gồm 9 tỉnh, thành phố: Ninh Thuận, Quảng Ninh, Bình Định, Lâm Đồng, Phú Yên, Trà Vinh, Hải Phòng, Hà Nội và Bình Phước.

Theo thống kê nêu trên và qua công tác quản lý, Tiền Giang thuộc nhóm các tỉnh có mức sinh thấp. Mức sinh hay tổng tỷ suất sinh (TFA: total Fertility rate) qua các năm như sau: Năm 2014 là 1,75 con, năm 2015 là 1,62, năm 2016 là 2, năm 2017 là 1,99, năm 2018 là 1,68, năm 2019 là 1,82 (thống kê qua tổng điều tra dân số).

Xuất phát từ thực tế trên, ngày 28-4-2020 Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ký Quyết định 588 phê duyệt “Chương trình điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030”. Mục tiêu cụ thể, phấn đấu đến năm 2030, tăng 10% tổng tỷ suất sinh ở các tỉnh, thành phố có mức sinh thấp (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có dưới 2 con); giảm 10% tổng tỷ suất sinh ở các tỉnh, thành phố có mức sinh cao (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có trên 2,2 con); duy trì kết quả ở những tỉnh, thành phố đã đạt mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có từ 2 - 2,2 con).

Mức sinh phải phù hợp với từng vùng, miền

Để làm được điều này, phải tiếp tục quán triệt sâu sắc hơn nữa việc chuyển hướng công tác dân số từ tập trung vào việc giảm sinh sang duy trì mức sinh thay thế. Thống nhất nhận thức trong lãnh đạo và chỉ đạo cuộc vận động thực hiện mỗi gia đình, cặp vợ chồng sinh đủ 2 con, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện sinh ít con ở những địa phương có mức sinh cao, duy trì kết quả ở những nơi đạt mức sinh thay thế, sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp.
Bên cạnh đó, chuyển hướng chính sách dân số từ tập trung vào kế hoạch hóa gia đình sang giải quyết toàn diện các vấn đề dân số bao gồm quy mô, cơ cấu, phân bổ và nâng cao chất lượng dân số; điều chỉnh, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ, khuyến khích. Trong đó, cần cụ thể hóa các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phù hợp với đặc điểm mức sinh của các địa phương có mức sinh khác nhau.

Cụ thể, đối với địa phương có mức sinh cao, tiếp tục áp dụng và nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách hỗ trợ, khuyến khích như khuyến khích các cặp vợ chồng, gia đình, tập thể, cộng đồng không có người sinh con thứ ba trở lên; hỗ trợ người dân thực hiện dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, bao gồm phương tiện tránh thai; bồi dưỡng, hỗ trợ người thực hiện nhiệm vụ cung cấp dịch vụ, người vận động thực hiện kế hoạch hóa gia đình…

Đối với địa phương có mức sinh thấp như tỉnh Tiền Giang, trước mắt cần rà soát, đề xuất bãi bỏ các chính sách khuyến khích sinh ít con. Cán bộ, đảng viên gương mẫu sinh đủ 2 con. Từng bước ban hành, thực hiện các chính sách khuyến khích sinh đủ 2 con. Khuyến khích các cặp vợ chồng sinh đủ 2 con được mua nhà ở xã hội, thuê nhà ở; ưu tiên vào các trường công lập, hỗ trợ chi phí giáo dục trẻ em; xây dựng mô hình quản lý, phát triển kinh tế gia đình; từng bước thí điểm các biện pháp tăng trách nhiệm đóng góp xã hội, cộng đồng đối với những trường hợp cá nhân không muốn kết hôn hoặc kết hôn quá muộn.

Cụ thể là, (1) Hỗ trợ tư vấn, cung cấp dịch vụ hôn nhân và gia đình: Phát triển các câu lạc bộ kết bạn trăm năm, hỗ trợ nam, nữ thanh niên kết bạn; tư vấn sức khỏe trước khi kết hôn; khuyến khích nam, nữ kết hôn trước 30 tuổi, không kết hôn muộn và sớm sinh con, phụ nữ sinh con thứ hai trước 35 tuổi. Thí điểm, nhân rộng các dịch vụ thân thiện với người lao động như đưa, đón trẻ, trông trẻ, ngân hàng sữa mẹ, bác sĩ gia đình…(2) Hỗ trợ phụ nữ khi mang thai, sinh con và sinh đủ 2 con: Tư vấn, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em bao gồm sàng lọc vô sinh, sàng lọc trước sinh và sau sinh, phòng chống suy dinh dưỡng; tạo điều kiện trở lại nơi làm việc cho phụ nữ sau khi sinh con; giảm thuế thu nhập cá nhân; miễn giảm các khoản đóng góp công ích theo hộ gia đình.

Những giải pháp trên sẽ góp phần giúp cho tổng tỷ suất sinh chuyển dịch về mức sinh thay thế, nhằm cân đối cơ cấu dân số, bảo đảm lực lượng lao động liên tục, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà.

BS CKII TRẦN THANH THẢO

.
.
.