.

Nguyễn Thị Bờ: Người phụ nữ trung kiên

Cập nhật: 09:52, 26/10/2021 (GMT+7)

Trong công cuộc giải phóng dân tộc, đội ngũ y, bác sĩ đã vượt qua bao khó khăn, gian khổ, thậm chí hy sinh tính mạng để hoàn thành nhiệm vụ cao cả mà Đảng, Nhà nước và nhân dân tin tưởng giao phó. Trong số đó có Liệt sĩ, Anh hùng Lực lượng vũ trang, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Bờ…

Đồng chí Nguyễn Thị Bờ bí danh Hai Liêm, thường gọi Hai Bờ, sinh năm 1926, tại làng Phú Thạnh Đông, tổng Hòa Đồng Hạ, tỉnh Gò Công (nay là xã Phú Đông, huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang) trong một gia đình nông dân nghèo, có truyền thống đấu tranh bất khuất.

Năm 1949, đồng chí tham gia cách mạng, làm giao liên hợp pháp, chỉ huy Ban Chấp hành Hội Phụ nữ xã nhà, đã có nhiều đóng góp trong vận động chị em phụ nữ gây dựng phong trào đấu tranh cách mạng, dũng cảm, mưu trí lọt qua mắt giặc, đưa công văn, chỉ thị của Đảng đến nơi kịp lúc.

Năm 1950, mặc dù mong muốn được trực tiếp chiến đấu chống kẻ thù, nhưng được cấp trên cử đi học lớp “cô đỡ” ở Đồng Tháp Mười, đồng chí đã khắc phục khó khăn, gửi con nhỏ cho gia đình chăm sóc, lên đường nhập học đúng thời gian quy định.

Sau khi hoàn thành khóa học, đồng chí trở về địa phương, tiếp tục công tác phụ nữ, vừa giúp chị em trong việc sinh đẻ, vừa lấy nghề “cô đỡ” làm điều kiện tiếp xúc với chị em để xây dựng cơ sở cách mạng.

Nhờ vậy, năm 1951 - 1952, xã Phú Thạnh Đông có hơn 100 hội viên Hội Phụ nữ, là xã có phong trào phụ nữ mạnh nhất huyện. Năm 1951, đồng chí được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam); năm 1952 là chi ủy viên Chi bộ xã Phú Thạnh Đông.

Năm 1954, sau khi tiễn người chồng thân yêu tập kết ra miền Bắc, đồng chí ở lại quê nhà, vừa lo nuôi cha mẹ già và 2 con nhỏ, vừa làm Bí thư Chi bộ mật của xã Phú Thạnh Đông, lãnh đạo chi bộ vượt qua thời kỳ khó khăn nhất của cách mạng.

Tháng 11-1954, đồng chí tổ chức cuộc mít tinh mừng hòa bình và đòi chính quyền địch thực hiện Hiệp định Genève, với sự tham gia của hàng ngàn quần chúng. Cuối năm 1956, đồng chí bị địch bắt. Mặc dù bị địch tra tấn dã man, nhưng đồng chí vẫn giữ vững khí tiết; đồng thời, động viên đồng đội kiên quyết không khai báo.

Sau 3 tháng ở trại giam Gò Công, không khai thác được gì, chúng chuyển đồng chí lên nhà lao Thủ Đức, đưa vào trại biệt giam dành cho thành phần nguy hiểm, bị chúng tra tấn dã man, nhưng đồng chí vẫn giữ vững ý chí tiến công của một chiến sĩ cách mạng trung kiên.

Tháng 11-1958, đồng chí được chúng thả. Trở về địa phương thì cơ sở cách mạng bị địch đánh phá ác liệt và gần như tan vỡ hoàn toàn, đồng chí đã nỗ lực gầy dựng lại phong trào. Năm 1961 - 1962, đồng chí được cấp trên cử đi học khóa Y sĩ.

Năm 1963, sau khi hoàn tất khóa học, đồng chí được điều về làm Phó Ban Dân y huyện Tây (nay là huyện Gò Công Tây và huyện Tân Phú Đông).

Giai đoạn năm 1965 - 1968, vùng Gò Công bị bình định trắng, địch đánh phá liên tục, số thương binh ở Trạm Dân y huyện do đồng chí phụ trách có lúc lên đến 70 - 80 người, tiền bạc, lương thực, thuốc men cạn kiệt, nhưng đồng chí đã không quản ngại khó khăn, nguy hiểm, tìm về cơ sở gặp cán bộ Hội Phụ nữ các xã để vận động quyên góp được hàng trăm ký gạo, một số tiền lớn và tổ chức đường dây mua thuốc, dụng cụ y tế ở Mỹ Tho, Sài Gòn để cứu chữa thương binh.

Năm 1968, đồng chí được đề bạt làm Trưởng Ban Dân y huyện. Đầu năm 1969, một tin đau thương đến với đồng chí: Cả 2 con trai của đồng chí đều anh dũng hy sinh trên chiến trường. Nén nỗi đau thương, mất mát quá to lớn, đồng chí hăng say công tác với quyết tâm góp phần sớm giải phóng quê hương, trả thù cho bao đồng đội, đồng chí và cả hai người con thân yêu của mình đã “vì nước quên thân”.

Tháng 10-1969, địch càn vào Trạm Dân y huyện. Trước tình hình khẩn cấp lúc đó, đồng chí cùng các cán bộ, nhân viên của trạm đã nhanh chóng chuyển toàn bộ thương binh đến nơi trú ẩn an toàn. Sau đó, đồng chí cùng với hai nữ y tá xuống hầm bí mật, bị địch phát hiện hầm và liên tục gọi hàng. Một lúc sau, thấy gọi hàng không kết quả, chúng dùng súng bắn cấp tập xuống hầm.

Kiên quyết không để bị địch bắt, đồng chí và đồng đội bật nấp hầm, tung lựu đạn đánh trả địch. Tuy nhiên, do quân địch đông và hỏa lực mạnh, đồng chí và đồng đội đã anh dũng hy sinh ngay tại miệng hầm. Về phía địch, có  1 tên đền tội và 3 tên khác bị thương. Trước lúc hy sinh, đồng chí đã xé nát tất cả tiền bạc, giấy tờ và đập bể dụng cụ y tế, quyết không để lọt vào tay giặc.

Sự anh dũng chiến đấu, hy sinh của đồng chí và đồng đội đã làm bọn địch khiếp đảm. Về phía ta, gần 100 thương binh và cán bộ, chiến sĩ được an toàn. Đồng chí xứng đáng với bao tấm gương tiết liệt của phụ nữ Việt Nam “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Tên của đồng chí được đặt tên đường ở thị trấn Vĩnh Bình, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.

SONG LAN

.
.
.