.

Tìm giải pháp xử lý chất thải trong chăn nuôi

Cập nhật: 14:37, 22/12/2017 (GMT+7)

Có một thực tế là ô nhiễm môi trường chăn nuôi tại các vùng nông thôn trên địa bàn tỉnh ngày càng trở nên nghiêm trọng. Nguyên nhân chính là do tình trạng chăn nuôi nhỏ lẻ, không kiểm soát được xả thải ra môi trường. Mặt khác, thời gian qua, nhiều hộ nuôi áp dụng một số biện pháp xử lý môi trường nhưng tình trạng ô nhiễm vẫn chưa được xử lý triệt để do nhiều nguyên nhân khác nhau.

Tập huấn kỹ thuật ủ phân compost.
Tập huấn kỹ thuật ủ phân compost.

THỰC TRẠNG TRONG XỬ LÝ CHẤT THẢI

Ngành Chăn nuôi của Tiền Giang phát triển khá nhanh, đứng thứ 2 trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, với tổng đàn heo trên 602.000 con, đàn bò 88.000 con và gia cầm trên 8 triệu con. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 27.584 hộ chăn nuôi với quy mô đàn nuôi dưới 500 con, 506 hộ/trang trại chăn nuôi có quy mô từ 500 - 1.000 con, 50 hộ/trang trại chăn nuôi có quy mô từ 1.000 - 2.000 con và 8 hộ/trang trại chăn nuôi có quy mô từ 2.000 con trở lên.

Thực tế cho thấy, trong nhóm hộ chăn nuôi có quy mô dưới 500 con, số lượng hộ đã xây hầm biogas để xử lý chất thải và hiện vẫn đang sử dụng tốt chỉ trên 10.000 hộ/27.584 hộ. Do đó trên địa bàn tỉnh vẫn còn khoảng 17.000 hộ chăn nuôi quy mô nhỏ chưa xây hầm khí sinh học (chiếm tỷ lệ 64%). Đây là nhóm đối tượng chính gây ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi trên địa bàn tỉnh, tập trung nhiều nhất ở khu vực nông thôn.

Một trong những nguyên nhân chính được xác định gây ô nhiễm môi trường là do các hộ nuôi sử dụng nhiều nước trong quá trình vệ sinh chuồng, trại. Tiến sĩ Trần Thanh Phong, Giám đốc Dự án Hỗ trợ nông nghiệp cacbon thấp (LCASP - gọi tắt là Dự án) cho biết, kết quả khảo sát cho thấy, các trang trại chăn nuôi sử dụng ít nước đều có thể dễ dàng thu gom chất thải rắn để bán hoặc làm phân bón hữu cơ. Chất thải rắn từ các trang trại chăn nuôi hầu như được tiêu thụ hết cho mục đích trồng cây ăn trái, rau màu, hoa, cây cảnh. Do vậy, trong chăn nuôi nếu sử dụng ít nước, chất thải rắn từ chăn nuôi luôn có thể thu gom để bán nên số lượng chất thải thải ra môi trường ít hơn, giảm thiểu được tình trạng ô nhiễm môi trường.

Mặt khác, công tác quản lý môi trường chưa đáp ứng được với nhu cầu của thực tế sản xuất. Các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải chăn nuôi theo QCVN 40:2011/BTNMT trước kia và QCVN 62-MT:2016/BTNMT hiện nay đều quá cao so với khả năng thực tế ứng dụng công nghệ xử lý môi trường hiện tại, dẫn đến hầu hết các trang trại đều không thể đáp ứng yêu cầu đặt ra do chưa có công nghệ xử lý môi trường chăn nuôi hiệu quả để theo kịp các quy định về xả thải môi trường. Do khó có thể đáp ứng quy định xả thải nên ở nhiều nơi việc áp dụng biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường ở các trang trại chăn nuôi chỉ mang tính đối phó. Cũng có thực tế là vẫn còn tâm lý ưu tiên phát triển kinh tế, giảm nhẹ yếu tố môi trường ở nhiều cấp chính quyền địa phương nên việc quản lý và xử lý môi trường chăn nuôi còn mang nặng tính hình thức.

Thời gian qua, giải pháp xây hầm biogas được nhiều hộ chăn nuôi ưu tiên sử dụng, tuy nhiên vẫn còn một số khó khăn, bất cập. Đối với các công trình khí sinh học quy mô nhỏ, hiện tượng quá tải công suất xử lý thường xuyên xảy ra do quy mô chăn nuôi thay đổi thường xuyên trong khi dung tích của hầm khí sinh học là cố định; chưa kể, lượng khí gas thừa không sử dụng hết, người dân lại xả trực tiếp ra môi trường. Đây là những nguyên nhân phổ biến gây ra ô nhiễm môi trường.

Trong khuôn khổ Dự án, hầu hết các hộ dân lựa chọn xây lắp các công trình khí sinh học quy mô nhỏ dưới 50 m3 vì lượng gas sinh ra phù hợp với nhu cầu sử dụng đun nấu của hộ gia đình. Phần lớn khí gas sinh ra từ các công trình khí sinh học quy mô lớn hơn 50 m3 đã, đang không được sử dụng hết. Nguyên nhân chính là do các công nghệ tận dụng khí gas để phát điện, thắp sáng, chạy máy còn nhiều hạn chế như máy hay hư hỏng, giá thành cao, không phù hợp với điều kiện của Việt Nam nên chưa mang lại hiệu quả kinh tế thực sự cho người sử dụng.

Có thể nói, thực trạng quản lý môi trường trong chăn nuôi hiện nay đang còn nhiều bất cập, bế tắc về công nghệ xử lý chất thải chăn nuôi quy mô trang trại; thiếu sự quan tâm thỏa đáng của các cấp chính quyền về quản lý và sự đầu tư nghiên cứu tìm kiếm các giải pháp công nghệ phù hợp, bền vững, giúp vừa xử lý môi trường chăn nuôi lại vừa mang lại thu nhập bổ sung, tạo động lực cho người dân áp dụng các biện pháp bảo vệ môi trường. Ngoài ra, chi phí xây dựng công trình khí sinh học lớn nên người dân chưa mạnh dạn đầu tư xây hầm biogas, một bộ phận người chăn nuôi chưa quan tâm đến việc xử lý chất thải chăn nuôi.

XỬ LÝ THẾ NÀO ĐÂY?

Xuất phát từ thực trạng trên, trong thời gian tới, Dự án tiếp tục duy trì công tác tuyên truyền về các hoạt động của dự án, thực hiện xây dựng, lắp đặt công trình hầm khí sinh học với quy mô nhỏ và vừa; tổ chức thực hiện mô hình sản xuất nông nghiệp cabon thấp trong xử lý chất thải chăn nuôi quy mô trang trại, đào tạo cho nông dân về sản xuất nông nghiệp cacbon thấp; đảm bảo công tác quản lý dự án đúng quy định của pháp luật và nhà tài trợ.

Theo Tiến sĩ Trần Thanh Phong, Dự án còn nghiên cứu xây dựng các mô hình chăn nuôi tiết kiệm nước nhằm tăng cường khả năng thu gom chất thải rắn của các trang trại chăn nuôi để làm phân bón hữu cơ. Bên cạnh đó là tiếp tục nghiên cứu công nghệ xử lý chất thải cho các quy mô chăn nuôi khác nhau theo hướng công nghệ khí sinh học, cải tiến cho chăn nuôi quy mô nhỏ và một số công nghệ bổ trợ khác nhằm khắc phục các hạn chế về quá tải hầm khí sinh học; các thiết bị giúp tận dụng hết khí gas sinh ra từ các hầm khí sinh học; công nghệ tách chất thải rắn từ phân lỏng do chăn nuôi quy mô công nghiệp sử dụng nhiều nước tạo ra, nhằm xử lý hiệu quả hơn nước thải từ các trang trại chăn nuôi. Song song đó sẽ khuyến khích nghiên cứu, sản xuất và tiêu thụ phân bón hữu cơ sinh học có nguồn gốc từ chất thải chăn nuôi nhằm thay thế phân hóa học nhập khẩu; bổ sung công nghệ sử dụng chất thải chăn nuôi làm phân bón hữu cơ nguyên liệu thành một trong những công nghệ xử lý môi trường chăn nuôi chủ lực cho các trang trại bên cạnh công nghệ khí sinh học đang được ưu tiên sử dụng hiện nay.

S.N-TTKN

.
.
.