Thứ Tư, 22/06/2016, 11:29 (GMT+7)
.

2 vụ tranh chấp đất có "uẩn khúc"

Vụ thứ nhất:

Năm 2006, cậu cháu ông Nguyễn Văn Mót và Nguyễn Thành Dũng (ngụ ấp Quang Khương, xã Quơn Long, huyện Chợ Gạo) đến nhà anh Nguyễn Ngọc Bích hỏi cho đi nhờ qua đất vườn để vận chuyển vật tư về xây dựng nhà, vì đi theo đường cũ vòng xa.

Chỗ xóm giềng, anh Bích đồng ý, nhưng sau đó 2 bên lại thể hiện bằng tờ giấy viết tay photo “Giấy chuyển nhượng làm đường đi 150 m đất”, không được công chứng hay thị thực của cơ quan chức năng và cũng không có chữ ký của các đồng sở hữu trong gia đình anh Bích (vì đất này cấp cho hộ).

Đến năm 2014, hai bên xảy ra tranh chấp, ông Mót khởi kiện ra tòa. Đúng lý, khi xem hồ sơ, xét thấy không đủ cơ sở pháp lý (tờ giấy photo viết tay), TAND huyện Chợ Gạo giao trả đơn kiện cho nguyên đơn về cơ sở tiến hành hòa giải. Đằng này, tòa thụ lý và đi tìm chứng cứ không rõ ràng, thiếu cơ sở pháp lý để chứng minh 2 bên mua bán là có thật, buộc chủ đất phải cắt giao đất cho người mua.

Những người đồng sở hữu phần đất trong gia đình anh Bích làm đơn chống án, với các lý do: Tờ giấy tay không thị thực, công chứng là do ông Dũng tự viết “… đồng ý bán 150 m đất”, đã trở thành 73,7 m2 (1,5 m x 49,55 m) và lại là “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.

Đất cấp cho hộ (trên 10 khẩu), nhưng tất cả các thành viên trong hộ không ai đồng thuận ký tên bán đất. Hộ ông Mót và hộ ông Dũng có 2 lối hiện hữu vào nhà, được thể hiện trên bản đồ địa chính. Vậy mà tòa đưa ra phán quyết buộc ông Bích và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có trách nhiệm giao đất cho ông Mót.

Mới đây, TAND tỉnh đưa ra xử phúc thẩm, nhưng cuối cùng Hội đồng xét xử  “đình án” để 2 bên đưa ra chứng cứ thuyết phục trên cơ sở luật pháp quy định.

Trường hợp thứ hai:

Về trường hợp khiếu nại của bà Trần Ngọc Kết (ngụ số 921, đường Trần Hưng Đạo, phường 5, TP. Mỹ Tho).

Căn nhà bà Kết ở từ năm 1995, nay sắp phải dọn đi để trả lại đất cho ông Đằng.
Căn nhà bà Kết ở từ năm 1995, nay sắp phải dọn đi để trả lại đất cho ông Đằng.

Năm 1995, bà Lê Thị Hoằng bị bệnh bán thân, các con ở xa không ai nuôi dưỡng nên bà Hoằng cùng chồng là ông Nguyễn Quan Quản có nhờ bà Trần Ngọc Kết (cháu gọi bà Hoằng bằng dì ruột) đến phụ nuôi bà Hoằng. Thấy hoàn cảnh bà Kết đang ở đậu đất người khác, việc đi lại bất tiện nên vợ chồng bà Hoằng thống nhất cho bà Kết cất 1 căn nhà trong phần đất của mình để thuận tiện việc chăm sóc bà Hoằng.

Ngày 20-7-1996, bà Hoằng đứng tên trên “Tờ cho đứt đất vườn”, nội dung ghi rõ: “… Nguyên tôi có một khu vườn trồng cây tạp diện tích 1.800 m2, thuộc đất nông nghiệp ở phường 5. Nay tôi trích ra 300 m2 giao đứt cho cháu kêu tôi bằng dì ruột là Trần Ngọc Kết nhận lãnh số đất diện tích ngang 5 m x dài 60 m (300 m2) để cất nhà ở, trồng tỉa sinh sống nhưng không được chuyển nhượng cho ai cả.

Bắt đầu từ ngày làm giấy tờ này, bà Trần Ngọc Kết được tùy nghi sử dụng phần đất này và từ đây về sau con cháu trong gia đình tôi không ai được tranh chấp với bà Trần Ngọc Kết”. Tờ giấy còn ghi thêm: “Người viết tờ Nguyễn Quan Quản. Người cho đất Lê Thị Hoằng” và được bà Phan Thị Liên, Tổ trưởng Tổ Nhân dân tự quản (NDTQ) số 10 (nay là Tổ NDTQ số 20), khu phố 3, phường 5, TP. Mỹ Tho xác nhận.

Năm 1998, bà Kết làm hồ sơ xin tách chủ quyền đất. Cán bộ phụ trách địa chính phường 5 đi thẩm tra, xác minh, ông Nguyễn Quan Đằng (con trai bà Hoằng) không đồng ý và phát sinh tranh chấp.

Ngày 14-8-2000, UBND TP. Mỹ Tho ra Quyết định 622/QĐ-UB: Chia đôi 300 m2 đất vườn và thổ cư đang tranh chấp cho mỗi bên sử dụng ½ diện tích. Ông Đằng không đồng ý, tiếp tục khiếu nại. Ngày 24-5-2001, UBND TP. Mỹ Tho ban hành Quyết định 417/QĐ-UB tiếp tục giao 20 m2 đất sau nhà bà Kết cho bà Hoằng sử dụng và “Tạm giữ cho bà Kết tạm sử dụng nền nhà đến khi con Út bà Kết 18 tuổi (năm 1999 con út bà Kết 6 tuổi) phải giao trả 130 m2 đất còn lại cho bà Hoằng”.

Nội dung 2 Quyết định này còn được UBND tỉnh chuẩn y bằng Quyết định 5235/QĐ-UB ngày 15-11-2001 và Quyết định 2061/QĐ-UB ngày 5-9-2012, buộc bà Kết phải giao trả đất đến khi con Út bà 18 tuổi. Về tài sản gắn liền trên đất, nếu 2 bên không thương lượng được thì khởi kiện ra tòa án xem xét, giải quyết.
Bà Kết đã khởi kiện ra tòa, nhưng cả 3 cấp tòa sơ thẩm, phúc thẩm, Tối cao đều không thụ lý và Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính vì không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án.

Cũng cần nói rõ thêm, việc ông Nguyễn Quan Đằng được ủy quyền tranh chấp và khiếu kiện là chưa đủ cơ sở pháp lý. Bởi vì “Tờ cho đứt đất vườn” ông Quản viết (bà Hoằng cho đất) vẫn có giá trị pháp lý, vì ông Quản là hàng thừa kế thứ nhất trong 1.800 m2 đất bà Hoằng (vợ) đứng chủ quyền, được quyền cho (tặng) phần đất thừa kế của ông cho bà Kết sử dụng là phù hợp theo pháp luật quy định.

Hơn nữa, bà Kết cũng đã đồng ý giao trả 170/300 m2 đất cho bà Hoằng theo 2 Quyết định của UBND TP. Mỹ Tho từ năm 2000, nay còn lại 130 m2 không thể “gỡ tay” giao trả hết, trong khi gia đình bà Kết không còn đất hay chỗ ở nào khác.

Điều đáng nói hơn nữa là cả ông Nguyễn Quan Đằng và bà Trần Ngọc Kết đều là cháu ngoại của chủ đất Lê Văn Chẩn, còn bà Hoằng mới đăng ký vào sổ bộ 299 phần đất trên vào năm 1984. Như vậy, mẹ bà Kết (con gái ông Chẩn) vẫn được thừa kế một phần trên diện tích 1.800 m2 đất của cha (nếu ông Chẩn không để lại di chúc cho bà Hoằng). Xét thấy, việc bà Kết được thừa hưởng 130 m2 đất của ông ngoại (ông Chẩn) để lại là điều không quá đáng cả tình và lý.

Thiết nghĩ, cả 2 vụ tranh chấp trên cơ quan chức năng cần cân nhắc, xem xét để có cách giải quyết thấu tình, đạt lý.

TỔ CTBĐ

.
.
.