Thứ Sáu, 01/06/2018, 20:53 (GMT+7)
.
Đoàn ĐBQH tỉnh Tiền Giang:

Thảo luận về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2011-2016

Ngày 28-5, Quốc hội làm việc ở Hội trường để thảo luận về việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn 2011 - 2016.

Đại biểu Nguyễn Minh Sơn (Đoàn ĐBQH tỉnh Tiền Giang) cơ bản tán thành nhiều nội dung trong báo cáo kết quả giám sát, báo cáo của Chính phủ đã nêu và phát biểu về một số vấn đề như sau:

Thứ nhất, vẫn còn những tồn tại, hạn chế trong quản lý sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp. Nghiêm trọng hơn, thời gian qua đã xảy ra những vi phạm trong lĩnh vực này dẫn đến những hậu quả nặng nề, khó khắc phục.

Một số vụ việc đã phải chuyển qua cơ quan điều tra, xử lý hình sự; nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này xuất phát từ công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với doanh nghiệp nhà nước.

Vấn đề này cần được nhìn nhận từ hai góc độ, góc độ của đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp và góc độ quản trị doanh nghiệp.

Từ góc độ của đại diện chủ sở hữu có thể thấy, phần lớn các doanh nghiệp này vẫn có bộ chủ quản hoặc chính quyền cấp tỉnh chủ quản.

Các cơ quan quản lý nhà nước cùng lúc thực hiện hai chức năng nên dễ gây xung đột lợi ích trong việc ban hành chính sách với chỉ đạo thực hiện và kiểm tra, giám sát.

Cách thức thực hiện giám sát, đánh giá hiện chủ yếu căn cứ vào các báo cáo của doanh nghiệp nhà nước mang tính thống kê hơn là báo cáo tình hình thực hiện mục tiêu của chủ sở hữu.

Việc giám sát đánh giá của chủ sở hữu cũng căn cứ vào kết quả thực hiện so với kế hoạch do các doanh nghiệp nhà nước tự xây dựng và đăng ký nên chưa phản ánh rõ được yêu cầu và đòi hỏi của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước.

Việc hình thành và quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin về doanh nghiệp nhà nước nói chung để phục vụ công tác giám sát, đánh giá còn rất hạn chế.

Từ góc độ quản trị doanh nghiệp cần thấy rằng hoạt động kiểm soát nội bộ doanh nghiệp còn hạn chế, một số trường hợp còn thiếu tính độc lập với hội đồng thành viên, hội đồng quản trị và ban điều hành doanh nghiệp nên không thể phát huy vai trò là công cụ cảnh báo, sớm ngăn ngừa các vi phạm về quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp.

Do đó, muốn khắc phục các bất cập này cần thiết trong từng doanh nghiệp nhà nước cần tạo lập ba vòng kiểm soát theo thông lệ quốc tế, đó là:

Một là, phát hiện và quản lý rủi ro trong hoạt động hằng ngày thông qua kiểm soát nội bộ.

Hai là, theo dõi giám sát rủi ro trong toàn bộ doanh nghiệp thông qua hệ thống quản trị rủi ro.

Ba là, kiểm toán nội bộ để bảo vệ tài sản vốn nhà nước, kinh tế của nhà nước.

Thứ hai, theo báo cáo Chính phủ (tại trang 28), tính đến ngày 31-12-2016 đã có 18 tập đoàn, tổng công ty 100% vốn nhà nước có dự án đầu tư ra nước ngoài, thực hiện đầu tư tại 110 dự án với tổng vốn đầu tư đã thực hiện hơn 7 tỷ đô la, chủ yếu tập trung trong lĩnh vực viễn thông, thăm dò, khai thác dầu khí, trồng cây cao su, khai thác khoáng sản; trong đó 15,5% dự án báo lỗ, 46,6% dự án không có báo cáo doanh thu lợi nhuận...

Chỉ riêng 2016 lợi nhuận được chia cho Việt Nam 145 triệu đô la. Nội dung này của báo cáo còn tương đối đơn giản, chưa lột tả được bức tranh tổng thể đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp nhà nước.

Vì vậy, đề nghị báo cáo cần làm rõ dự án thuộc ngành, lĩnh vực nào lỗ, hòa vốn, lãi, các quốc gia, doanh nghiệp đã đầu tư, hạn chế vướng mắc và nguyên nhân của việc lỗ.

Vì vậy, kiến nghị Chính phủ cần rà soát, tổng kết vấn đề này để đánh giá thực chất hơn, đưa ra các giải pháp xử lý, cơ cấu lại đối với những dự án đầu tư kém hiệu quả theo hướng bán, chuyển nhượng, trong đó cần chú ý đưa ra các giải pháp xử lý kịp thời, vướng mắc cho doanh nghiệp, bảo đảm không làm ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả đầu tư đối với một số dự án quan trọng mang tính chiến lược.

Đồng thời, kiến nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong phân công công tác đối ngoại năm 2019 cho các cơ quan của Quốc hội, ngoài việc triển khai thực hiện theo lĩnh vực phụ trách thì giao thêm nhiệm vụ khảo sát, nắm tình hình hoạt động các dự án tại các nước khi đến làm việc.

Thứ ba, về cổ phần hóa doanh nghiệp, việc xử lý đất đai và xác định giá trị quyền sử dụng đất trong giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa là vấn đề được quan tâm trong quá trình cổ phần hóa thời gian qua.

Theo báo cáo của Kiểm toán nhà nước, hầu hết các tập đoàn, tổng công ty nhà nước khi thực hiện cổ phần hóa giai đoạn 2011 - 2015 đều không tính giá trị lợi thế quyền thuê đất vào giá trị doanh nghiệp.

Thực tế một số doanh nghiệp có diện tích đất lớn, vị trí đắc địa nhưng không có tính giá trị lợi thế quyền thuê đất vào giá khởi điểm để đấu giá thì giá trúng cao hơn nhiều so với giá khởi điểm; và nếu như đối với trường hợp doanh nghiệp trả tiền thuê đất hằng năm theo Nghị định 59 về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần, tiền thuê đất không tính vào giá trị doanh nghiệp và giá trị lợi thế, do đó quyền thuê đất không được tính vào giá trị doanh nghiệp theo quy định tại khoản 1 Điều 14 và khoản 3 Điều 31 Nghị định 126 của Chính phủ.

Quá trình sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 19 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về việc tiếp tục đổi mới chính sách Luật Đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới tạo nền tảng đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại cho thấy việc xác định giá đất cụ thể tại một số địa phương còn lúng túng, bộ máy và cơ sở vật chất bảo đảm cho việc xác định giá đất chưa đáp ứng yêu cầu thông tin về giá đất trên thị trường còn thiếu và độ tin cậy chưa cao.

Như vậy, thông số quan trọng để xác định đơn giá thuê đất là tỷ lệ % và giá đất cụ thể đều không thể hiện hết tính hiệu quả trong xác định giá trị lợi thế quyền thuê đất của doanh nghiệp cổ phần.

Do đó, kiến nghị Chính phủ để bảo đảm lợi ích của Nhà nước và phản ánh đúng giá trị thực tế của doanh nghiệp, cần xem xét lại quy định liên quan đến xác định giá trị lợi thế quyền thuê đất và giá trị doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hóa.

                                                                        ĐĂNG HIẾU (tổng hợp)

.
.
.